Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự : điều gì tốt thì giữ ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa (1 Thêsalônica).
Câu chuyện này là của Blake Healy. Đọc qua những sách Blake Healy đã viết, mình chưa gặp điểm gì đi ngược với đức tin Công giáo. Và thế giới thiêng liêng thì thiên hình vạn trạng; điều mình chưa thấy, chưa hiểu, không có nghĩa là nó không hiện hữu. Ai dám nói Chúa phải làm như thế này chứ không nên làm như thế kia. Ad đăng câu chuyện này chỉ vì nó giúp người đọc nhìn thấy tình yêu phụ tử, ân cần của Chúa qua một câu chuyện rất cụ thể vì ai trong chúng ta cũng cần cảm nghiệm tình yêu Chúa cho cuộc sống ta trong cuộc sống cụ thể của mình. Tình yêu của Chúa không hề là trừu tượng và ta rất cần đến tình yêu ấy để không ngừng dò tìm dấu vết của tình yêu ấy trong mọi ngóc ngách cuộc đời.
Chúng tôi đến hồ bơi công cộng với tay đầy đồ. Tôi mang theo những túi chất đầy khăn tắm, thiết bị nổi, chai nước và rất nhiều đồ ăn vặt. Vợ tôi, April, bế đứa con sơ sinh Finnley. Haydon, cậu con trai ba tuổi của chúng tôi, chạy lon ton phía trước, háo hức muốn tận dụng từng giây phút để chơi trong nước. Tôi bước theo sát, nóng lòng đeo áo phao cho thằng bé càng sớm càng tốt vì trẻ ba tuổi thì chẳng nổi được bao nhiêu trong nước.
Sau khi dỡ đồ và giành được ghế bằng khăn tắm, tôi và Haydon nhảy xuống hồ bơi, trong khi April và Finnley ngồi chơi dưới bóng râm. Thiên thần của April, mặc một chiếc váy hồng trắng, quỳ ngay sau lưng cô ấy. Vị thiên thần thỉnh thoảng ló đầu qua vai April, làm những biểu cảm ngộ nghĩnh với em bé, ăn khớp hoàn hảo với nét mặt và âm thanh đùa vui mà April đang làm. Tôi gọi thiên thần của April là “cô ấy” không phải vì tôi nghĩ thiên thần có giới tính nữ, mà vì trang phục, mái tóc vàng cát dài và khuôn mặt của thiên thần ấy trông có vẻ nữ tính với tôi. Tôi không nghĩ thiên thần có giới tính như con người, nhưng họ thường thể hiện những đặc tính nam tính hoặc nữ tính rõ rệt.
Tôi và Haydon bơi khắp hồ, vung vẩy và chơi đùa. Thiên thần của thằng bé luôn ở bên cạnh, chỉ thỉnh thoảng rời đi để chỉ cho nó điều gì đó thú vị ở chỗ khác trong hồ. Thiên thần ấy phóng qua mặt nước với chiếc áo choàng xanh tung bay trong gió, rồi dừng lại một chỗ và vẫy tay rối rít. Haydon sẽ bơi về hướng đó. Có lúc chúng tôi tìm thấy điều gì đó thú vị, như một con côn trùng nhỏ đang trượt trên mặt nước; có lúc thì chẳng có gì đáng chú ý theo tôi thấy, nhưng Haydon luôn tìm ra được điều gì đó cuốn hút ở mỗi chỗ. Không phải lúc nào chúng tôi cũng theo hướng thiên thần chỉ; đôi khi sự tò mò tự nhiên của thằng bé dẫn chúng tôi đi chỗ khác. Hồ bơi rộng và quanh co, có cả thác nước nhỏ và nhiều chỗ chơi vui nên thằng bé cứ thế mà chạy theo những thứ hấp dẫn mắt nó.
Khi bơi trở lại chỗ April và Finnley đang chơi, tôi tự hỏi liệu Haydon có thật sự thấy thiên thần chỉ chỗ cho nó đi không, hay sự tương tác của thiên thần với nó tự nhiên và quen thuộc đến mức chẳng khác gì suy nghĩ bên trong của nó. Có phải thiên thần đang chỉ đường cho nó hay chỉ nhẹ nhàng khơi gợi trí tò mò trẻ thơ? Tôi đã định hỏi nó, nhưng hỏi mấy chuyện sâu xa như thế với một đứa bé thì thật không dễ chút nào.
Chúng tôi có nguyên hồ bơi cho riêng mình một lúc. Sau khoảng mười lăm phút chơi đùa, một người phụ nữ khoảng sáu mươi tuổi đến bơi. Bà mặc một bộ đồ tắm liền thân màu xanh nước biển với viền trắng ở vai, đội mũ bơi viền trắng, và đeo kính lặn màu xanh neon. Bà mang theo cặp tay phao màu cam sáng, kẹp ba bốn thanh xốp bơi dưới tay, và cầm hai ván bơi nhỏ bằng xốp. Hồi nhỏ tôi được dạy là không nên nhìn chằm chằm người khác, nhưng lúc đó thật khó để không nhìn.
Người phụ nữ từ từ xuống nước, cẩn thận không để rơi mất đồ. Bà bám vào thành hồ, kẹp thanh xốp dưới hai tay, nằm lên hai ván bơi, cúi đầu khoảng năm phân xuống nước, rồi đạp mạnh khỏi thành hồ bắt đầu bơi. Bà chỉ bơi được khoảng 25 cm thì ngẩng đầu lên, đứng dậy thở hổn hển, nhổ nước và ho sặc sụa. Bà chỉnh lại đống đồ bơi bị xộc xệch và quay về thành hồ. Chẳng mấy chốc bà sẵn sàng cho lần thử thứ hai. Lần này bà bơi được khoảng 30 cm. Lại ho sặc, lại quay về thành hồ, rồi lại bắt đầu. Cứ thế bà lặp lại chu trình này trong bốn mươi lăm phút, chỉ nghỉ đúng thời gian cần để lấy lại hơi thở.
Dù cố gắng tôn trọng sự riêng tư, tôi vẫn không thể không tò mò về chuyện bà đang làm. Không suy nghĩ nhiều, tôi nhìn vào thế giới linh thiêng. Tôi thấy thiên thần của bà đứng ngay trên mặt nước phía trên bà khi bà đạp và bơi. Thiên thần ấy trông không thể phấn khích hơn. Cô ấy nhảy cẫng lên, giơ tay cổ vũ, hét lớn: “Cố lên! Cô làm được mà! Đi đi! Bơi đi!” Trông thiên thần ấy như một phụ huynh đang xem con mình ghi bàn quyết định trong trận chung kết.
Tôi nhìn sang phải một chút thì thấy một con quỷ đang lơ lửng phía trên người phụ nữ. Nó nhỏ thó, gầy guộc, ngón tay nhọn hoắt. Mỗi lần bà cúi đầu xuống nước bắt đầu bơi, con quỷ lại thò tay xuống, chọc và cào vào sau đầu bà. Tôi có thể cảm thấy và nhìn thấy sự độc ác, khinh miệt trong hành động của nó. Nhưng khi nhìn vào mặt nó, tôi không thấy vẻ giận dữ mà là nỗi hoảng loạn tuyệt đối. Nó trông sợ hãi tột độ.
Khi tôi lùi lại để nhìn toàn cảnh—người phụ nữ đang cố hết sức bơi, các dụng cụ lỉnh kỉnh xung quanh; thiên thần nhảy múa cổ vũ; con quỷ đang cào cấu điên cuồng—tôi không thể không hỏi Chúa Thánh Thần: “Chuyện gì đang xảy ra vậy?”
Ngài trả lời không do dự: “Bà ấy đã sợ nước kể từ khi suýt chết đuối năm ba tuổi, nhưng hôm nay bà ấy quyết định đã đến lúc vượt qua nỗi sợ đó.”
Giọng Ngài đầy tự hào như người cha khiến tôi không nói nên lời. Cảm xúc ấy lan truyền đến mức tôi thấy tự hào thay cho bà—vì đã dám bỏ công sức vượt qua điều hẳn đã trở thành một phần quen thuộc trong cuộc sống thường nhật, vì đã cố gắng không chỉ 10 phút mà suốt 45 phút, và vì tiếp tục nỗ lực dù một đứa trẻ ba tuổi đang bơi vòng vòng quanh bà. Tôi tràn ngập niềm vui trước điều bà đang làm.
Sau khi Haydon và tôi bơi thêm một lúc, April vẫy gọi để thay phiên xuống hồ. Tôi lên bờ, ngồi cạnh đứa bé đang ngủ say trong cũi nhỏ.
April thân thiện hơn tôi nhiều. Tôi cố gắng không nhìn người phụ nữ quá lâu, giữ Haydon tránh xa, và ở bên này hồ để bà không bị làm phiền. Nhưng khi April thấy người phụ nữ, nhìn bộ đồ và tất cả vật dụng bà mang theo, cô ấy bơi ngay đến hỏi: “Chào cô! Cô đang làm gì thế?”
Người phụ nữ dừng lại, chỉnh lại mũ bơi, bật cười và nói: “Con biết không, đầu năm nay cô nhận ra mình có quá nhiều ước mơ để cho nỗi sợ kìm chân. Vậy nên cô quyết định năm nay sẽ đối mặt với mọi nỗi sợ. Tuần này cô học bơi, tuần sau cô đi nhảy dù.”
Thật dễ tin rằng Chúa phấn khởi khi ta làm điều lớn lao: khi rao giảng Tin Mừng, khi cầu nguyện và người khác được chữa lành, hay khi nói lời tiên tri giúp ai đó được soi sáng. Cũng dễ tin rằng Chúa vui nếu ta dâng hết của cải cho người nghèo hay đi đến một đất nước nghèo để phục vụ. Nhưng đôi khi lại khó tin rằng Chúa cũng vui khi ta đi làm đúng giờ, thay bóng đèn đã cháy cả tháng, hay chọn nhẹ nhàng với con thay vì nổi giận. Thật khó tin rằng Chúa vui khi ta treo móc khóa gần cửa để khỏi mất chìa khóa, khi ta cải thiện bảng tính ngân sách công ty, hay khi ta nướng được mẻ bánh ngon. Điều đó khó tin vì ta chưa hiểu trọn vẹn tình yêu lớn lao của Ngài.
Mỗi chiến thắng đều được ăn mừng trên trời—dù lớn hay nhỏ. Tại sao? Vì mỗi chiến thắng có tác động vượt xa những gì ta thấy. Người phụ nữ ấy không chỉ học bơi—bà đang học cách vượt qua nỗi sợ. Vượt qua sợ hãi là kỹ năng có thể áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác. Đó là điều bà có thể dạy cho người khác. Con quỷ sợ hãi vì nó đang mất chỗ đứng trong cuộc đời bà. Khe hở của nỗi sợ vốn đã quen thuộc giờ đang bị lấp đầy bằng sự dũng cảm. Vượt qua sợ nước có thể không phải điều vĩ đại nhất, nhưng học cách vượt qua nỗi sợ là một chiến thắng có thể thay đổi cả đời. -- Từ Profound Good: See God Through the Lens of His Love

0 comments:
Post a Comment