MỘT NGÀY Ở HỒ BƠI

Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự : điều gì tốt thì giữ ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa (1 Thêsalônica).

Câu chuyện này là của Blake Healy. Đọc qua những sách Blake Healy đã viết, mình chưa gặp điểm gì đi ngược với đức tin Công giáo. Và thế giới thiêng liêng thì thiên hình vạn trạng; điều mình chưa thấy, chưa hiểu, không có nghĩa là nó không hiện hữu. Ai dám nói Chúa phải làm như thế này chứ không nên làm như thế kia. Ad đăng câu chuyện này chỉ vì nó giúp người đọc nhìn thấy tình yêu phụ tử, ân cần của Chúa qua một câu chuyện rất cụ thể vì ai trong chúng ta cũng cần cảm nghiệm tình yêu Chúa cho cuộc sống ta trong cuộc sống cụ thể của mình. Tình yêu của Chúa không hề là trừu tượng và ta rất cần đến tình yêu ấy để không ngừng dò tìm dấu vết của tình yêu ấy trong mọi ngóc ngách cuộc đời.

Chúng tôi đến hồ bơi công cộng với tay đầy đồ. Tôi mang theo những túi chất đầy khăn tắm, thiết bị nổi, chai nước và rất nhiều đồ ăn vặt. Vợ tôi, April, bế đứa con sơ sinh Finnley. Haydon, cậu con trai ba tuổi của chúng tôi, chạy lon ton phía trước, háo hức muốn tận dụng từng giây phút để chơi trong nước. Tôi bước theo sát, nóng lòng đeo áo phao cho thằng bé càng sớm càng tốt vì trẻ ba tuổi thì chẳng nổi được bao nhiêu trong nước.

Sau khi dỡ đồ và giành được ghế bằng khăn tắm, tôi và Haydon nhảy xuống hồ bơi, trong khi April và Finnley ngồi chơi dưới bóng râm. Thiên thần của April, mặc một chiếc váy hồng trắng, quỳ ngay sau lưng cô ấy. Vị thiên thần thỉnh thoảng ló đầu qua vai April, làm những biểu cảm ngộ nghĩnh với em bé, ăn khớp hoàn hảo với nét mặt và âm thanh đùa vui mà April đang làm. Tôi gọi thiên thần của April là “cô ấy” không phải vì tôi nghĩ thiên thần có giới tính nữ, mà vì trang phục, mái tóc vàng cát dài và khuôn mặt của thiên thần ấy trông có vẻ nữ tính với tôi. Tôi không nghĩ thiên thần có giới tính như con người, nhưng họ thường thể hiện những đặc tính nam tính hoặc nữ tính rõ rệt.

Tôi và Haydon bơi khắp hồ, vung vẩy và chơi đùa. Thiên thần của thằng bé luôn ở bên cạnh, chỉ thỉnh thoảng rời đi để chỉ cho nó điều gì đó thú vị ở chỗ khác trong hồ. Thiên thần ấy phóng qua mặt nước với chiếc áo choàng xanh tung bay trong gió, rồi dừng lại một chỗ và vẫy tay rối rít. Haydon sẽ bơi về hướng đó. Có lúc chúng tôi tìm thấy điều gì đó thú vị, như một con côn trùng nhỏ đang trượt trên mặt nước; có lúc thì chẳng có gì đáng chú ý theo tôi thấy, nhưng Haydon luôn tìm ra được điều gì đó cuốn hút ở mỗi chỗ. Không phải lúc nào chúng tôi cũng theo hướng thiên thần chỉ; đôi khi sự tò mò tự nhiên của thằng bé dẫn chúng tôi đi chỗ khác. Hồ bơi rộng và quanh co, có cả thác nước nhỏ và nhiều chỗ chơi vui nên thằng bé cứ thế mà chạy theo những thứ hấp dẫn mắt nó.

Khi bơi trở lại chỗ April và Finnley đang chơi, tôi tự hỏi liệu Haydon có thật sự thấy thiên thần chỉ chỗ cho nó đi không, hay sự tương tác của thiên thần với nó tự nhiên và quen thuộc đến mức chẳng khác gì suy nghĩ bên trong của nó. Có phải thiên thần đang chỉ đường cho nó hay chỉ nhẹ nhàng khơi gợi trí tò mò trẻ thơ? Tôi đã định hỏi nó, nhưng hỏi mấy chuyện sâu xa như thế với một đứa bé thì thật không dễ chút nào.

Chúng tôi có nguyên hồ bơi cho riêng mình một lúc. Sau khoảng mười lăm phút chơi đùa, một người phụ nữ khoảng sáu mươi tuổi đến bơi. Bà mặc một bộ đồ tắm liền thân màu xanh nước biển với viền trắng ở vai, đội mũ bơi viền trắng, và đeo kính lặn màu xanh neon. Bà mang theo cặp tay phao màu cam sáng, kẹp ba bốn thanh xốp bơi dưới tay, và cầm hai ván bơi nhỏ bằng xốp. Hồi nhỏ tôi được dạy là không nên nhìn chằm chằm người khác, nhưng lúc đó thật khó để không nhìn.

Người phụ nữ từ từ xuống nước, cẩn thận không để rơi mất đồ. Bà bám vào thành hồ, kẹp thanh xốp dưới hai tay, nằm lên hai ván bơi, cúi đầu khoảng năm phân xuống nước, rồi đạp mạnh khỏi thành hồ bắt đầu bơi. Bà chỉ bơi được khoảng 25 cm thì ngẩng đầu lên, đứng dậy thở hổn hển, nhổ nước và ho sặc sụa. Bà chỉnh lại đống đồ bơi bị xộc xệch và quay về thành hồ. Chẳng mấy chốc bà sẵn sàng cho lần thử thứ hai. Lần này bà bơi được khoảng 30 cm. Lại ho sặc, lại quay về thành hồ, rồi lại bắt đầu. Cứ thế bà lặp lại chu trình này trong bốn mươi lăm phút, chỉ nghỉ đúng thời gian cần để lấy lại hơi thở.

Dù cố gắng tôn trọng sự riêng tư, tôi vẫn không thể không tò mò về chuyện bà đang làm. Không suy nghĩ nhiều, tôi nhìn vào thế giới linh thiêng. Tôi thấy thiên thần của bà đứng ngay trên mặt nước phía trên bà khi bà đạp và bơi. Thiên thần ấy trông không thể phấn khích hơn. Cô ấy nhảy cẫng lên, giơ tay cổ vũ, hét lớn: “Cố lên! Cô làm được mà! Đi đi! Bơi đi!” Trông thiên thần ấy như một phụ huynh đang xem con mình ghi bàn quyết định trong trận chung kết.

Tôi nhìn sang phải một chút thì thấy một con quỷ đang lơ lửng phía trên người phụ nữ. Nó nhỏ thó, gầy guộc, ngón tay nhọn hoắt. Mỗi lần bà cúi đầu xuống nước bắt đầu bơi, con quỷ lại thò tay xuống, chọc và cào vào sau đầu bà. Tôi có thể cảm thấy và nhìn thấy sự độc ác, khinh miệt trong hành động của nó. Nhưng khi nhìn vào mặt nó, tôi không thấy vẻ giận dữ mà là nỗi hoảng loạn tuyệt đối. Nó trông sợ hãi tột độ.

Khi tôi lùi lại để nhìn toàn cảnh—người phụ nữ đang cố hết sức bơi, các dụng cụ lỉnh kỉnh xung quanh; thiên thần nhảy múa cổ vũ; con quỷ đang cào cấu điên cuồng—tôi không thể không hỏi Chúa Thánh Thần: “Chuyện gì đang xảy ra vậy?”

Ngài trả lời không do dự: “Bà ấy đã sợ nước kể từ khi suýt chết đuối năm ba tuổi, nhưng hôm nay bà ấy quyết định đã đến lúc vượt qua nỗi sợ đó.”

Giọng Ngài đầy tự hào như người cha khiến tôi không nói nên lời. Cảm xúc ấy lan truyền đến mức tôi thấy tự hào thay cho bà—vì đã dám bỏ công sức vượt qua điều hẳn đã trở thành một phần quen thuộc trong cuộc sống thường nhật, vì đã cố gắng không chỉ 10 phút mà suốt 45 phút, và vì tiếp tục nỗ lực dù một đứa trẻ ba tuổi đang bơi vòng vòng quanh bà. Tôi tràn ngập niềm vui trước điều bà đang làm.

Sau khi Haydon và tôi bơi thêm một lúc, April vẫy gọi để thay phiên xuống hồ. Tôi lên bờ, ngồi cạnh đứa bé đang ngủ say trong cũi nhỏ.

April thân thiện hơn tôi nhiều. Tôi cố gắng không nhìn người phụ nữ quá lâu, giữ Haydon tránh xa, và ở bên này hồ để bà không bị làm phiền. Nhưng khi April thấy người phụ nữ, nhìn bộ đồ và tất cả vật dụng bà mang theo, cô ấy bơi ngay đến hỏi: “Chào cô! Cô đang làm gì thế?”

Người phụ nữ dừng lại, chỉnh lại mũ bơi, bật cười và nói: “Con biết không, đầu năm nay cô nhận ra mình có quá nhiều ước mơ để cho nỗi sợ kìm chân. Vậy nên cô quyết định năm nay sẽ đối mặt với mọi nỗi sợ. Tuần này cô học bơi, tuần sau cô đi nhảy dù.”

Thật dễ tin rằng Chúa phấn khởi khi ta làm điều lớn lao: khi rao giảng Tin Mừng, khi cầu nguyện và người khác được chữa lành, hay khi nói lời tiên tri giúp ai đó được soi sáng. Cũng dễ tin rằng Chúa vui nếu ta dâng hết của cải cho người nghèo hay đi đến một đất nước nghèo để phục vụ. Nhưng đôi khi lại khó tin rằng Chúa cũng vui khi ta đi làm đúng giờ, thay bóng đèn đã cháy cả tháng, hay chọn nhẹ nhàng với con thay vì nổi giận. Thật khó tin rằng Chúa vui khi ta treo móc khóa gần cửa để khỏi mất chìa khóa, khi ta cải thiện bảng tính ngân sách công ty, hay khi ta nướng được mẻ bánh ngon. Điều đó khó tin vì ta chưa hiểu trọn vẹn tình yêu lớn lao của Ngài.

Mỗi chiến thắng đều được ăn mừng trên trời—dù lớn hay nhỏ. Tại sao? Vì mỗi chiến thắng có tác động vượt xa những gì ta thấy. Người phụ nữ ấy không chỉ học bơi—bà đang học cách vượt qua nỗi sợ. Vượt qua sợ hãi là kỹ năng có thể áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác. Đó là điều bà có thể dạy cho người khác. Con quỷ sợ hãi vì nó đang mất chỗ đứng trong cuộc đời bà. Khe hở của nỗi sợ vốn đã quen thuộc giờ đang bị lấp đầy bằng sự dũng cảm. Vượt qua sợ nước có thể không phải điều vĩ đại nhất, nhưng học cách vượt qua nỗi sợ là một chiến thắng có thể thay đổi cả đời. -- Từ Profound Good: See God Through the Lens of His Love

Những sai lầm các linh mục trừ tà mắc phải

Làm linh mục trừ tà thì rất an toàn, không có gì để sợ cả. Một số người không dám đảm nhận sứ vụ này vì sợ. Điều đó có thể là biểu hiện của sự thiếu đức tin. Hãy tin tưởng nơi Chúa Giêsu! Ngài là Chúa. Satan khiếp sợ Ngài và cũng sợ cả linh mục trừ tà. Như cha Gabriel Amorth – linh mục trừ tà nổi tiếng – từng nói: “Satan sợ tôi!”

Làm linh mục trừ tà giống như làm phi công – cả hai đều rất an toàn… nhưng ma quỷ không nhẹ nhàng khi ta phạm phải sai lầm nặng. Tôi đã từng phạm một số sai sót khi học làm linh mục trừ tà, và hiện giờ vẫn có. May mắn là chưa lỗi lầm nào quá nghiêm trọng và Thiên Chúa đã thương xót tôi. Tuy nhiên, tôi biết có những linh mục trừ tà đã mắc lỗi nặng, thậm chí đánh mất khả năng thi hành sứ vụ linh mục. Dưới đây là một số sai lầm thường gặp:

1. Quên rằng chính Chúa Kitô là Đấng trừ tà

Ma quỷ luôn cố lôi kéo linh mục trừ tà vào cuộc chiến tay đôi. Khi nghe tiếng la hét của chúng trong lúc trừ tà, linh mục có thể có cảm giác mình có “quyền năng”, và quên rằng thực ra chính Chúa Kitô mới là Đấng trừ tà. Kết quả là sự kiêu ngạo phát sinh. Ma quỷ sẽ nghiền nát một linh mục nghĩ rằng mình có thể tự mình đánh bại chúng. Khi ma quỷ cám dỗ tôi nói: “Ô, cha thật có quyền năng,” tôi liền đáp lại: “Không, chính Chúa Giêsu trục xuất ngươi!”

Ngược lại, có linh mục lại nghĩ sứ vụ của mình không hiệu quả, rằng lời cầu nguyện không có tác dụng. Ma quỷ sẽ chế giễu, nhạo báng, nhắc đến tội lỗi quá khứ, gieo nghi ngờ và làm suy giảm lòng tin của linh mục. Đây cũng là một cơn cám dỗ. Linh mục cần nhớ rằng quyền trừ tà không đến từ bản thân, mà do Chúa Kitô trao cho Giáo Hội, và Giám mục ủy quyền cho linh mục. Như lời trong nghi thức trừ tà xưa: “Ta truyền cho ngươi không phải bằng sự yếu đuối của ta, nhưng bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, hãy rời khỏi tôi tớ này của Thiên Chúa.”

2. Mất kiểm soát buổi trừ tà

Ma quỷ sẽ làm mọi cách để phá rối phiên trừ tà. Lời cầu nguyện gây cho chúng nỗi đau đớn khôn cùng và chúng sẽ làm mọi cách để bám trụ lại, không bị trục xuất. Vì thế, chúng sẽ đánh lạc hướng linh mục trừ tà bằng những lời nói vô nghĩa. Chúng sẽ la hét, thốt ra những câu nói gây xao nhãng và những lời đe dọa. Chúng sẽ ném đồ vật trong phòng. Chúng sẽ kích động mâu thuẫn và chia rẽ trong Nhóm hỗ trợ. Thậm chí, chúng còn khiến người bị quỷ ám bay lơ lửng. Tất cả những điều này chỉ là những nỗ lực nhằm phá hỏng buổi trừ tà. Tôi không phải là người thích kiểm soát, nhưng trong một buổi trừ tà, tôi cần phải là người nắm quyền chủ động. Như tôi thường nói với các linh mục mới đang được huấn luyện:: “Nếu cha không nắm quyền chủ động buổi trừ tà, ma quỷ sẽ nắm lấy quyền đó.”

3. Nhầm lẫn giữa bệnh tâm thần và quỷ ám

Đây là một sai lầm rất phổ biến mà các linh mục trừ tà mới thường mắc phải. Những người mắc chứng loạn thần thường nghĩ rằng họ bị quỷ ám – điều này khá phổ biến. Những người bị bệnh tâm thần đôi khi nghe thấy những ý nghĩ ghê tởm, báng bổ và xấu xa trong đầu họ, và cho rằng đó là do ma quỷ. Họ cảm thấy như bị dày vò từ bên trong. Khi được cầu nguyện cho, họ thậm chí còn có thể “biểu hiện” – đôi khi la hét hoặc quằn quại để phản ứng.

Tuy nhiên, một linh mục trừ tà dày dạn kinh nghiệm và có sự nhạy bén thiêng liêng có thể cảm nhận được rằng không hề có sự hiện diện của ma quỷ. Trong những trường hợp này, vị linh mục không cảm thấy có sự hiện diện của sự dữ thuần túy. Hơn nữa, những tiếng la hét và các “biểu hiện” xảy ra trong buổi cầu nguyện, hoàn toàn mang tính con người trong âm thanh và cảm giác.

Thỉnh thoảng, tôi sẽ rảy nước máy chưa làm phép lên người đó và/hoặc đọc vài câu tiếng Latinh vô hại. Những người không bị quỷ ám nhưng lại tin rằng mình bị, đôi khi sẽ cố gắng diễn lại cảnh bị quỷ ám mà họ từng thấy trong phim ảnh. Khi điều này xảy ra, tôi nhẹ nhàng kết thúc phiên trừ tà và đề nghị họ theo một chương trình cầu nguyện liên tục – điều này rất tốt cho bất kỳ người Công giáo đạo đức nào. Nhưng tôi sẽ không tiếp tục các buổi trừ tà nữa.

Nếu vị linh mục trừ tà không phân biệt được giữa bệnh tâm thần và bị quỷ ám, ngài có khả năng sẽ dành RẤT NHIỀU thời gian – thậm chí là nhiều năm – để cầu nguyện cho những người mắc bệnh tâm thần nặng mà không đạt được tiến triển thực sự, hoặc rất ít. Thường thì những người này sẽ KHĂNG KHĂNG đòi hỏi thêm các buổi cầu nguyện và thêm các phiên trừ tà. Trong quá trình đó, các nguồn lực hạn chế của linh mục trừ tà và nhóm hỗ trợ sẽ bị tiêu hao vào một nỗ lực vô ích, thậm chí có thể phản tác dụng.

Người ta có thể suy đoán rằng đây có thể là một trong những mưu mẹo của Satan: khiến linh mục trừ tà và nhóm của ngài kiệt sức trong một công việc vô ích. Thực vậy, một trong những cuộc tấn công của Satan vào vị linh mục trừ tà là đẩy ngài vào trạng thái kiệt quệ. Sứ vụ này vốn đã tiêu hao rất nhiều về mặt thiêng liêng và đòi hỏi sự phân bổ khôn ngoan về thời gian cũng như các nguồn lực giới hạn. Ngày càng có nhiều người khẳng định rằng họ bị quỷ ám và đòi hỏi sự chú ý trực tiếp từ linh mục trừ tà và nhóm hỗ trợ.

Vị linh mục trừ tà cần phải phân định rõ ai là người ngài có thể và nên trợ giúp. Những người mắc các chứng bệnh tâm thần nghiêm trọng hiếm khi bị quỷ ám hoàn toàn, dù họ có biểu hiện giống như bị quỷ ám.

4. Vượt quá giới hạn với người bị quỷ ám

Một linh mục trừ tà thường có một mối quan hệ khá thân thiết với người bị quỷ ám. Họ gặp nhau thường xuyên trong nhiều tháng, có khi nhiều năm. Linh mục sẽ trở nên quen thuộc với những chi tiết rất riêng tư trong cuộc sống của người đó. Những người bị quỷ ám thường là phụ nữ trẻ đến từ những hoàn cảnh bị lạm dụng. Họ thường sợ hãi, dễ tổn thương và cần được giúp đỡ. Vì vậy, hoàn toàn tự nhiên khi họ có xu hướng bám víu vào linh mục trừ tà. Đây là công thức dẫn đến thảm họa.

Trong những năm gần đây, đã có ít nhất vài trường hợp linh mục trừ tà có quan hệ tình dục với người bị quỷ ám. Những trường hợp này được biết đến rộng rãi và đã bị xử lý. Còn có nhiều trường hợp khác, dù không có hành vi thể lý, nhưng mối quan hệ đã trở nên rối rắm và không lành mạnh. Thực tế là, nếu một linh mục trừ tà có mối quan hệ không lành mạnh, quá mức thân mật với người bị quỷ ám – dù không có hành vi cụ thể – thì ngài vẫn có thể bị một số ma quỷ bám lấy. Ma quỷ có thể dùng chính mối quan hệ sai lệch này như một cánh cửa để len lỏi vào đời sống của vị linh mục. Và một trong những ưu tiên hàng đầu của ma quỷ trong các trường hợp quỷ ám là phá hủy ơn gọi linh mục. Điều đó sẽ không chỉ chấm dứt tác vụ trừ tà của vị linh mục ấy, mà còn làm gián đoạn cả những công việc khác mà ngài đang thực hiện.

Nhóm trừ tà của chúng tôi về cơ bản đã giải quyết được nguy cơ tiềm ẩn này. Những phụ nữ bị ảnh hưởng chỉ tương tác với các nữ giáo dân trong nhóm, ngoại trừ trong các buổi trừ tà. Và trong mọi buổi trừ tà, luôn có nhiều thành viên trong nhóm hiện diện, bao gồm cả phụ nữ nếu người được giúp là nữ. Là một linh mục trừ tà, tôi không bao giờ ở một mình với người bị ảnh hưởng. Nếu người đó cần xưng tội hoặc hướng dẫn thiêng liêng, họ sẽ làm việc với cha xứ hoặc người hướng dẫn của mình. Cách làm này đã hoạt động rất hiệu quả để bảo vệ cả người bị ảnh hưởng lẫn các linh mục trừ tà.

5. Bị lừa bởi những “ơn lạ” giả mạo và người nhạy cảm giả

Một trong những mánh khóe phổ biến của Satan là đánh lừa linh mục trừ tà bằng những kinh nghiệm thiêng liêng giả dối.

Chẳng hạn, như đã đề cập trước đó, việc người bị quỷ ám kể rằng họ có những kinh nghiệm huyền nhiệm với Đức Trinh Nữ Maria hoặc có những ân sủng thiêng liêng đặc biệt như tri thức thần bí, mặc khải nội tâm, hay ơn tiên tri là điều khá thường gặp. Chúng tôi luôn nhắc những người bị quỷ ám rằng, nếu họ có một kinh nghiệm thần bí nào đó trong suốt quá trình dài giải thoát, thì họ nên giả định rằng nó đến từ ma quỷ. Chúng tôi nhắc họ rằng Satan có thể – và thường xuyên – đội lốt thiên thần ánh sáng!

Ngoài ra, các linh mục trừ tà thường có những người được xem là có ơn thiêng liêng hỗ trợ trong thừa tác vụ. Thường thì chính những người cho rằng mình có ân huệ đặc biệt sẽ chủ động đến tìm các linh mục trừ tà và đề nghị được giúp đỡ. Tuy nhiên, nhiều người trong số họ lại bị lừa dối – hoặc bởi một thần khí giả, hoặc bởi chính trí tưởng tượng của họ. Những linh mục trừ tà từng dựa vào những người như vậy nhiều lần đã bị dẫn lạc hướng, gây ra hậu quả tiềm ẩn nguy hiểm. Kinh Thánh đã dạy rõ: “Anh em đừng vội tin bất cứ thần khí nào, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa mà đến hay không” (1 Ga 4,1).

Tương tự như vậy, chính các linh mục trừ tà cũng thường bị cám dỗ nghĩ rằng mình có những đặc sủng hay hiểu biết thần bí đặc biệt. Dù quả thật có thể linh mục nhận được những ơn như thế, nhưng chúng cũng có thể đến từ ma quỷ. Một số linh mục trừ tà trở nên kiêu ngạo, tin rằng mình là người đặc biệt, nhất là khi có một số người ngày nay đặt các linh mục trừ tà lên “bệ cao.” Điều đáng ghi nhớ là cha Gabriel Amorth, vị linh mục trừ tà lừng danh của Rôma, chỉ xem mình là một linh mục được trao tác vụ trừ quỷ. Ngài đã thi hành sứ vụ ấy cách trung thành và khiêm nhường trong nhiều năm cho đến khi qua đời.

Làm linh mục trừ tà là một sứ vụ tuyệt vời và chan chứa ân sủng. Giáo luật điều 1172 khuyến nghị Giám mục nên chọn một linh mục “đạo đức, thông hiểu, thận trọng và có đời sống ngay chính.” Một linh mục đang vật lộn với các chứng nghiện ngập, rối loạn cảm xúc, quá khắt khe, thiếu khiết tịnh hay các khó khăn tương tự sẽ không thích hợp cho sứ vụ này. Thêm vào đó, các linh mục trừ tà thường là những người đã lớn tuổi, đã trải qua nhiều thập niên phục vụ và – hy vọng – đã trục xuất được một số “con quỷ” của chính mình. Nếu một linh mục trẻ được mời gọi làm linh mục trừ tà, tôi đặc biệt khuyên vị linh mục ấy nên làm việc dưới sự hướng dẫn của một linh mục trừ tà cao niên.

Chúng tôi đã mất một vài linh mục tốt vì những sai lầm trong khi chiến đấu với Ác Thần. Tôi cầu nguyện để chúng ta không mất thêm ai nữa, và tôi hy vọng of St. Michael Center for Spiritual Renewal sẽ hỗ trợ các linh mục thi hành sứ vụ này với lòng trung tín và sự ngay chính. Như tôi vẫn nói với các tân linh mục trừ tà: Hãy tuân theo quy tắc! Ở lại trong con thuyền (của Giáo Hội Công Giáo)! Hãy tin tưởng và phó thác vào Chúa Giêsu! - Từ My Confrontation with Hell: Real Demonic Encounters of an Exorcist