Tại sao việc trừ quỷ lại khó khăn? Chẳng lẽ Chúa và ma quỷ đang "tay đôi" đối đầu?

Lang thang trên Facebook, nhìn thấy bìa cuốn sách Big God, Little Devil (Thiên Chúa Vĩ Đại, Quỷ Bé Xíu Xiu) của Dr. Sean Tobin. Bìa sách ấy khiến tôi nhớ đến những thách thức đức tin mà mình từng trải qua.

Sau khi đọc xong Nhà Trừ Quỷ Kể Chuyện của cha Gabriele Amorth, tôi có cảm giác rằng: thật vất vả để trừ được một con quỷ — như thể thật khó cho Chúa để trừ một con quỷ.

Sau này, khi đọc thêm các chia sẻ của nhiều linh mục trừ quỷ khác, tôi bắt đầu hiểu sâu hơn. Hôm nay, tôi muốn tóm tắt lại những gì mình đã khám phá, vì có lẽ nhiều người cũng từng cảm thấy bối rối như tôi khi đọc xong sách của cha Amorth.

Khi một người bị ma quỷ khống chế đến mức cần đến linh mục trừ quỷ, thường là họ đã vô tình mở cửa cho nó qua một hành vi nào đó. Ma quỷ hoạt động như một thế lực ngầm độc ác: trước hết, nó tước đi mọi khả năng chống cự của con người. Các linh mục trừ quỷ cũng cho biết — những vết thương tâm lý, tổn thương nội tâm là nơi ma quỷ dễ bám víu nhất, như dòi bọ bám vào vết thương hở. Vì thế, chỉ trừ quỷ thôi là chưa đủ: họ cần được chữa lành tâm lý và loại bỏ những lối suy nghĩ tiêu cực...

Về mặt tâm linh, nhiều người không có đời sống đức tin lành mạnh. Qua những buổi trừ quỷ, họ dần dần nhận ra sự ghê tởm của ma quỷ, sức mạnh của lời cầu nguyện, và tầm quan trọng của cộng đoàn đức tin. Cuối cùng, họ phải chọn — chọn đời sống đức tin, chọn Thiên Chúa.

Các linh mục trừ quỷ luôn ý thức rằng chính Chúa mới là Đấng trừ quỷ, không phải họ. Chúa quyết định thời điểm, và mọi việc diễn ra theo kế hoạch của Ngài. Không phải vì Chúa “không đủ mạnh”, mà vì người con đang chịu ám ảnh kia chưa đủ mạnh để, sau khi được giải thoát, không mở cửa cho ma quỷ quay lại.

Đó là lý do thật sự khiến việc trừ quỷ khó khăn: không phải vì Chúa thiếu quyền năng, mà vì con cái Ngài chưa đủ sức mạnh nội tâm và đức tin để giữ vững tự do mà họ được ban.

Còn một điểm khác cho thấy quyền năng của Chúa: Chúa Giêsu không bao giờ “xuất hiện” trong các buổi trừ quỷ. Các thánh có — chẳng hạn thánh Gemma Galgani thường hiện diện. Khi Đức Mẹ hiện ra, các linh mục trừ quỷ biết là họ đã thắng: Mẹ chỉ cần “liếc nhìn” về phía ma quỷ, nó lập tức run sợ và rút lui.

Ma quỷ vốn kiêu ngạo. Nó mong chúng ta tin rằng Thiên Chúa phải “xuất hiện” để đối đầu với nó — như thể chúng ngang hàng. Nhưng nó không bao giờ là đối thủ của Thiên Chúa.

Chúa không bận tâm đến sức mạnh của ma quỷ; nó chỉ là một thụ tạo trong tay Ngài. Nếu Chúa không cho phép, nó chẳng thể nhúc nhích dù chỉ một ngón tay. Điều Chúa thật sự quan tâm là con người, những người Ngài đã cứu chuộc bằng giá máu của Con Một.

Big God, Little Devil. Thiên Chúa thật Vĩ Đại — không chỉ vì quyền năng, mà vì tình yêu Ngài dành cho những người con khốn khổ của mình. Chúa có khả năng để dùng cả cơ hội này, cả việc nhốt quỷ dữ trong người ấy, cho đến thời gian Ngài định đoạt, để huấn luyện con cái Chúa. Ngài cho phép nó hành động trong giới hạn Ngài đặt ra, để rèn luyện đức tin và lòng phó thác của con cái mình.

Dù con người có tự đặt mình vào hoàn cảnh nguy kịch và thống khổ, Thiên Chúa vẫn tỏ mình là Đấng Tối Cao, Đấng có quyền năng tuyệt đối và làm mọi sự sinh ích cho những ai biết tin tưởng và quy phục Ngài.

Chỉ một mình Chúa mới có cái nhìn đúng đắn về ta

Tôi mười sáu tuổi, đang ở nhà thờ vào một sáng Chủ nhật thì một người bạn trong nhóm thanh niên chạy đến, vừa thở hổn hển vừa hét tên tôi: “Blake! Blake, tôi cần nói chuyện với cậu ngay!”

Tôi quay lại, giơ tay ra như để tự vệ khi cậu ấy dừng gấp ngay trước mặt. “Tôi... cần... hỏi...” – cậu nói ngắt quãng vì hụt hơi. “Cậu bình tĩnh thở đã,” tôi đáp.

Khi hơi thở dần ổn định, cậu nói: “Tôi cần cậu nói thật cho tôi biết – có gì đó bám theo tôi không?” “Tức là sao?” tôi hỏi, dù tôi biết rõ ý cậu ấy.
“Nghe này,” cậu nói, giọng lại lộ vẻ tuyệt vọng, “tôi biết cậu không thích nói về ma quỷ hay những chuyện đó. Tôi biết cậu cho rằng nó chẳng giúp ích gì, nhưng tôi cần cậu nói cho tôi biết ngay, làm ơn.”

Cách cậu ấy nói chữ ‘làm ơn’ khiến tôi không thể từ chối. Tôi nhìn vào thế giới thiêng liêng.

Một con quỷ nhỏ đang lơ lửng giữa tôi và bạn tôi. Nó gầy gò, da xanh nhớt, đang cố trùm một thứ gì đó lên đầu bạn tôi – như cha mẹ đang vật lộn mặc áo cho đứa trẻ không chịu hợp tác. Đó là một chiếc mặt nạ bằng vải thô, màu xanh nhạt như da nó, có cái mũi heo và hai lỗ mắt lệch lạc.

Khi nhận ra tôi nhìn thấy, nó quay lại – cái mũi heo y hệt chiếc mặt nạ.

“Tôi...” – tôi ngập ngừng, vì mọi e ngại về việc nói chuyện quỷ dữ lại dâng lên. – “Thật ra cũng chẳng có gì nghiêm trọng.” “Không, làm ơn, cậu phải nói cho tôi biết.” – Cậu nắm lấy áo tôi.

Tôi thấy sự tuyệt vọng chân thành trong mắt cậu. Tôi hỏi: “Tại sao chuyện này lại quan trọng đến vậy?”

Cậu buông áo tôi ra, ngập ngừng rồi nói nhỏ: “Tôi cần biết liệu tôi có phải là người xấu không.” Tôi bật cười vì tưởng đùa, nhưng thấy nét lo âu thật sự trên mặt cậu. “Tôi nghiêm túc đấy,” cậu nói, nước mắt lăn dài. “Từ nhỏ tôi luôn có suy nghĩ này... Tôi sợ mình là người xấu, là kẻ ác.”

Cậu nói tiếp: “Người xấu đâu có biết mình xấu khi còn nhỏ. Họ cũng ăn kẹo, gặp ông già Noel, chơi với bạn bè... rồi lớn lên và làm điều điên rồ. Tôi cứ nghĩ mãi, rồi bắt đầu nghe một giọng nói nhỏ: ‘Cẩn thận, mày sẽ làm hại người khác. Mày nguy hiểm đấy.’”

Tôi nhìn con quỷ và chiếc mặt nạ nó đang cố trùm lên bạn tôi.

“Cậu phải nói cho tôi biết, có con quỷ nào khiến tôi thành kẻ xấu không?”

Tôi nhìn thẳng vào mắt cậu: “Nghe này, cậu không phải là người xấu.” “Nhưng—” “Không. Cậu không phải là người xấu,” tôi nhấn mạnh. “Không con quỷ nào có thể khiến cậu trở nên ác độc. Không gì có thể làm điều đó.”

Tôi mô tả cho cậu nghe con quỷ và chiếc mặt nạ: “Nó đang cố khiến cậu tin rằng cậu giống như nó – nó muốn cậu mang khuôn mặt của nó, nhận lấy bản chất của nó. Ma quỷ luôn tìm cách khiến người ta gắn mình với một bản chất không thuộc về họ.”

Tôi nói thêm: “Chúng có thể gieo một ý nghĩ bẩn thỉu, một giấc mơ kỳ quái, hay thì thầm rằng cậu là người xấu – nhưng cậu luôn có quyền chọn cách phản ứng với những ý nghĩ đó.”

Cậu im lặng một lúc rồi hỏi: “Vậy đó là một trò lừa sao?” “Đúng, chỉ là một trò lừa – nhằm hù dọa cậu, hoặc tệ hơn, khiến cậu tin và hành động theo nó. Đơn giản chỉ là dối trá.”

Nói rằng ma quỷ dùng lời dối trá như một chiến thuật riêng biệt của nó, nghe có vẻ dư thừa vì tất cả mưu kế của ma quỷ đều dựa trên sự lừa dối. Tất cả các mưu kế được nói đến trong cuốn sách này đều bắt nguồn từ sự lừa dối. Ma quỷ luôn nói dối — đó chính là điều chúng làm. Khi một việc bạn làm thất bại, kẻ thù thì thầm: “Mày là kẻ thất bại.” Khi ai đó tỏ ra lạnh nhạt với bạn, nó nói: “Hắn không thích mày đâu,” hoặc “Không ai thích mày cả.”

Nhiều lời nói dối có chút manh mối của sự thật — chúng phóng đại hoặc bóp méo điều vốn đúng. Tôi thêm chương này vì điều quan trọng là phải nhận ra rằng, dù có nhiều lời dối trá chứa một phần sự thật, thì cũng có không ít lời hoàn toàn bịa đặt, chẳng hề có chút sự thật nào trong đó.

Người bạn của tôi bắt đầu tin vào lời nói dối rằng cậu là kẻ xấu. Lời nói dối nghe thật vô lý -- đối với tôi nó đúng thật là như vậy -- nhưng với cậu ấy, điều đó lại thật đến mức ám ảnh. Kẻ thù đã khéo léo gom góp từng ý nghĩ lệch lạc và mỗi lần vấp ngã, như bằng chứng để khiến ta tin vào một điều dối trá tận gốc: rằng bạn tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc trở nên xấu xa. Lời nói dối lúc đầu thì rõ ràng, nhưng những mảnh vụn của sự thật trong đó lại khiến nó ngày càng trở nên thuyết phục hơn.

Một số lời dối trá có phần thật, một số thì hoàn toàn giả tạo. Nhưng chúng ta không cần cố phân biệt. Tìm kiếm sự thật trong lời nói dối của kẻ thù chẳng khác nào mò một đồng xu trong thùng thủy tinh vỡ – đau đớn và vô ích. Dù lời nói dối có chứa một phần, hay 99% sự thật, nếu nó đến từ kẻ thù, thì nó chẳng bao giờ có ích cho bạn.

“Hỡi Chúa, xin dò xét con, xin biết lòng con; thử thách con và biết những ý nghĩ lo âu của con. Xin chỉ cho con thấy con đường nào sai lầm và dẫn con vào đường đời đời.” (Thánh Vịnh 139:23–24)

Chỉ một mình Chúa mới có thể bày tỏ sự thật. Chỉ Ngài mới cho ta cái nhìn đúng đắn về yếu đuối, sai lầm, và khuyết điểm của mình. Sự sửa dạy của Chúa đầy lòng nhân hậu và tình yêu; không phải để kết án, mà để ban sức mạnh đổi thay.

Ngài mặc khải sự thật qua Lời Ngài, tiếng nói của Ngài, và tình hiệp thông với con cái Ngài. Chúng ta không cần phải moi tìm sự thật giữa những lời dối trá của ma quỷ, vì Cha chúng ta là Đấng khởi nguồn của mọi chân lý.

Dấu hiệu cho thấy bạn đang bị ảnh hưởng bởi chiến thuật dối trá này:

  1. Những ý nghĩ tự kết án thường xuyên xuất hiện trong tâm trí bạn.
  2. Bạn dễ thấy mình cứ lặp đi lặp lại trong những thất bại, nhưng lại chẳng thấy lối thoát.
  3. Bạn cảm thấy tận sâu bên trong mình có gì đó không ổn, không đúng.

Trích từ Indestructible: Fight Your Spiritual Battles From the Winning Side

Ai bằng Thiên Chúa chúng ta?

Tên gọi của Tổng lãnh Thiên Thần Micae chính là chiến lược của ngài: “Ai sánh được cùng Thiên Chúa chúng ta?” (Kh 12; Gđ 1:9).

Ngài không chiến đấu bằng sức riêng, cũng không tranh cãi với ma quỷ. Ngài chỉ cắm rễ sâu vào Thiên Chúa—và sự thật ngài tuyên bố, bóng tối không còn chỗ dung thân. Ngài tuyên bố "Thiên Chúa thì vĩ đại và ma quỷ chỉ là tép riu".

Trong Lễ kính các Tổng lãnh Thiên Thần, ước gì tiếng hô của Micae cũng là tiếng hô của chúng ta: Ai sánh được cùng Thiên Chúa?

Người Kitô hữu hãy sống đức tin với niềm vui vì Thiên Chúa toàn năng yêu bạn

Đoạn dịch dưới đây lấy từ video clip Chris Stefanik phỏng vấn Dave Van Vickle là người giáo dân đã giúp trong các buổi trừ tà. Đây là cảm giác của anh sau 20 năm chứng kiến các buổi trừ tà:

Tôi cũng muốn nói thêm thế này: sau 20 năm chứng kiến các buổi trừ tà – một khoảng thời gian khá dài, đúng không? – tôi chưa từng một lần rời đi với suy nghĩ “Quỷ dữ thật quyền năng.” Mỗi lần rời đi, tôi luôn nghĩ: “Tạ ơn Chúa vì chức linh mục, vì Đức Mẹ và vì thiên thần bản mệnh của tôi.”

Chris: Khi bước vào một ngôi nhà bị xâm nhập, người ta sẽ thấy gì? Và làm cách nào để đuổi chúng đi? Chỉ cần đến đọc kinh là đủ sao?

Dave: Quỷ luôn hành động dựa trên “được quyền” – chúng rất “pháp lý”. Chúng chỉ hiện diện ở đâu đó nếu chúng có quyền ở đó. Thường thì vì một tội ác ghê tởm đã xảy ra tại nơi đó, hoặc có người cố tình mời chúng vào. Có thể từng có một nhóm phù thủy sống ở đó, hoặc nơi đó từng là phòng khám phá thai – những nơi như vậy thường là điểm “nóng”.

Thường thì ngôi nhà sẽ yên ổn… cho đến khi một gia đình Công giáo chuyển đến, bắt đầu cầu nguyện, đọc Kinh Thánh. Khi đó, lũ quỷ phản ứng kiểu: “Khoan đã, đây là nhà của bọn tao mà!” – và chúng bắt đầu lộ diện.

Dấu hiệu có thể là bóng đen, côn trùng xuất hiện hàng loạt. Thậm chí, mọi người trong nhà có thể cùng mơ thấy những giấc mơ quỷ ám giống nhau. Một dấu hiệu rõ ràng nữa là sự xúc phạm đến những vật thánh.

Tôi từng xử lý một trường hợp – gia đình đó vừa chuyển từ Venezuela sang. Mỗi lần về nhà, họ đều thấy tượng Đức Mẹ bị vứt trong bồn cầu. Họ gắn camera nhưng chẳng bao giờ thấy gì. Mọi chuyện cứ thế xảy ra. Cuối cùng, họ tìm đến các linh mục.

Chúng tôi phát hiện người phụ nữ trong nhà khi còn nhỏ bị bệnh rất nặng, và đã tìm đến một nghi thức kỳ lạ – họ rạch những “nút thắt” trên cổ cô ấy trong suốt bảy ngày. Cô ấy vẫn giữ sợi dây chuyền từ nghi thức đó trong nhà. Khi chúng tôi hỏi có thể vứt bỏ nó không, cô lập tức đồng ý – và ngay khi đó, mọi hiện tượng lạ dừng lại hoàn toàn.

Chris: Trải nghiệm đó có khiến anh thêm yêu mến thiên chức linh mục không?

Dave: Hoàn toàn có. Khi bạn chứng kiến cách lũ quỷ phản ứng trước các linh mục, bạn sẽ kinh ngạc. Một linh mục tôi từng hỗ trợ – thật lòng mà nói, bạn sẽ không bao giờ nghĩ vị linh mục ấy có thể làm gì đáng sợ. Trông ngài ấy như một củ khoai tây to tướng và lúc nào cũng như đang buồn ngủ. Ngay cả trong khi làm lễ trừ tà, linh mục ấy cũng chỉ nói như là đọc kinh: “Quyền năng của Đức Kitô đuổi ngươi đi…”

Nhưng điều đó chẳng quan trọng. Bọn quỷ không nhìn thấy linh mục nhưng là nhìn thấy Đức Kitô. Khi người linh mục khoác áo lễ lên, chúng thấy Chúa Giêsu, thấy vị Vua Tối Thượng, và chúng run sợ.

Chris: Quỷ sợ các bí tích – đặc biệt là Bí tích Hòa giải – đến mức nào?

Dave: Rất sợ. Có lần, trong một buổi trừ tà, con quỷ (tôi không thích nhắc lại lời của ma quỷ) nói rằng nó ghét những linh mục giáo xứ, những linh mục rất bình thường – vì chính những linh mục đó cướp khỏi tay nó hàng trăm ngàn linh hồn – thông qua tòa giải tội.

Đó mới là điều chúng sợ. Không chỉ là trừ tà – mà là xưng tội và Thánh lễ. Đó là lời nhắc nhở cho mọi linh mục ơn gọi của cha mạnh mẽ đến mức nào, dù đôi lúc có vẻ rất bình thường.

Chris: Về Đức Mẹ thì sao? Anh đã nói Mẹ đóng vai trò then chốt?

Dave: Tôi không thể nói đủ được. Mỗi khi ai đó bảo có chuyện gì đó có vẻ như ma quỷ có tay trong đó, tôi luôn nói: hãy gia tăng lòng sùng kính Đức Mẹ. Mẹ đã được Thiên Chúa giao phó vai trò quan trọng trong mọi trận chiến thiêng liêng. Và quyền năng của Mẹ trên thế giới bóng tối – thật không thể tưởng được.

Tôi nhớ một trường hợp – một phụ nữ sống với chúng tôi nhiều năm. Cô ấy bị quỷ nhập nghiêm trọng. Chỉ cần ai nhắc đến tên “Mẹ Maria” hay “linh mục” là cô lập tức nổi cơn thịnh nộ, như muốn giết người. Tôi phải bắt đầu dạy Tin Mừng cho cô ấy cách dè dặt. Tôi bắt đầu bằng cách nói: “Tôi kể cho bạn nghe về người đã yêu tôi nhiều nhất được không?” Với cách đó chúng tôi bắt đầu.

Dần dần, cô ấy khá hơn. Nhưng vẫn có điều gì đó ngăn cản cô được hoàn toàn tự do khỏi sự kiềm chế của sự dữ

Một ngày, vị linh mục trừ tà cảm thấy nản lòng và cầu nguyện: “Lạy Mẹ Maria, khi nào thì Mẹ sẽ tỏ lòng thương xót cô gái tội nghiệp này?” Ngay lập tức, cô ấy bắt đầu la hét – những tiếng hét rợn người, không giống tiếng người chút nào.

Sau đó, cô im bặt. Linh mục hỏi: “Chị thấy gì vậy?”
Cô đáp: “Có một người phụ nữ mặc áo trắng đang đến.”
Vị linh mục nói: “Đó chính là người chúng tôi nói với chị – là Mẹ Maria. Hãy chào Mẹ đi.”
Cô ấy quỳ xuống và đọc Kinh Kính Mừng. Ngay lập tức, cả căn phòng tràn ngập sự bình an.
Linh mục hỏi: “Chúng (quỷ) đã đi chưa?”
Cô ấy đáp: “Chúng muốn đi – nhưng Mẹ không cho.”
Chúng tôi hỏi lại: “Nghĩa là sao?”
Cô trả lời: “Mẹ bắt từng con quỷ phải phủ phục và đọc Kinh Sáng Danh dâng lên Hài Nhi trong tay Mẹ, rồi mới được rời đi.”

Giống như một người mẹ sẽ bằng mọi cách bảo vệ con cái yêu dấu của mình, Mẹ Maria cũng vậy. Sau đó, có một sự bình an sâu thẳm trong phòng.Tôi rất thường chứng kiến điều này. Theo kinh nghiệm của tôi, trong trường hợp thật sự bị quỷ nhập, Đức Mẹ rất thường can thiệp vào.

MỘT NGÀY Ở HỒ BƠI

Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự : điều gì tốt thì giữ ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa (1 Thêsalônica).

Câu chuyện này là của Blake Healy. Đọc qua những sách Blake Healy đã viết, mình chưa gặp điểm gì đi ngược với đức tin Công giáo. Và thế giới thiêng liêng thì thiên hình vạn trạng; điều mình chưa thấy, chưa hiểu, không có nghĩa là nó không hiện hữu. Ai dám nói Chúa phải làm như thế này chứ không nên làm như thế kia. Ad đăng câu chuyện này chỉ vì nó giúp người đọc nhìn thấy tình yêu phụ tử, ân cần của Chúa qua một câu chuyện rất cụ thể vì ai trong chúng ta cũng cần cảm nghiệm tình yêu Chúa cho cuộc sống ta trong cuộc sống cụ thể của mình. Tình yêu của Chúa không hề là trừu tượng và ta rất cần đến tình yêu ấy để không ngừng dò tìm dấu vết của tình yêu ấy trong mọi ngóc ngách cuộc đời.

Chúng tôi đến hồ bơi công cộng với tay đầy đồ. Tôi mang theo những túi chất đầy khăn tắm, thiết bị nổi, chai nước và rất nhiều đồ ăn vặt. Vợ tôi, April, bế đứa con sơ sinh Finnley. Haydon, cậu con trai ba tuổi của chúng tôi, chạy lon ton phía trước, háo hức muốn tận dụng từng giây phút để chơi trong nước. Tôi bước theo sát, nóng lòng đeo áo phao cho thằng bé càng sớm càng tốt vì trẻ ba tuổi thì chẳng nổi được bao nhiêu trong nước.

Sau khi dỡ đồ và giành được ghế bằng khăn tắm, tôi và Haydon nhảy xuống hồ bơi, trong khi April và Finnley ngồi chơi dưới bóng râm. Thiên thần của April, mặc một chiếc váy hồng trắng, quỳ ngay sau lưng cô ấy. Vị thiên thần thỉnh thoảng ló đầu qua vai April, làm những biểu cảm ngộ nghĩnh với em bé, ăn khớp hoàn hảo với nét mặt và âm thanh đùa vui mà April đang làm. Tôi gọi thiên thần của April là “cô ấy” không phải vì tôi nghĩ thiên thần có giới tính nữ, mà vì trang phục, mái tóc vàng cát dài và khuôn mặt của thiên thần ấy trông có vẻ nữ tính với tôi. Tôi không nghĩ thiên thần có giới tính như con người, nhưng họ thường thể hiện những đặc tính nam tính hoặc nữ tính rõ rệt.

Tôi và Haydon bơi khắp hồ, vung vẩy và chơi đùa. Thiên thần của thằng bé luôn ở bên cạnh, chỉ thỉnh thoảng rời đi để chỉ cho nó điều gì đó thú vị ở chỗ khác trong hồ. Thiên thần ấy phóng qua mặt nước với chiếc áo choàng xanh tung bay trong gió, rồi dừng lại một chỗ và vẫy tay rối rít. Haydon sẽ bơi về hướng đó. Có lúc chúng tôi tìm thấy điều gì đó thú vị, như một con côn trùng nhỏ đang trượt trên mặt nước; có lúc thì chẳng có gì đáng chú ý theo tôi thấy, nhưng Haydon luôn tìm ra được điều gì đó cuốn hút ở mỗi chỗ. Không phải lúc nào chúng tôi cũng theo hướng thiên thần chỉ; đôi khi sự tò mò tự nhiên của thằng bé dẫn chúng tôi đi chỗ khác. Hồ bơi rộng và quanh co, có cả thác nước nhỏ và nhiều chỗ chơi vui nên thằng bé cứ thế mà chạy theo những thứ hấp dẫn mắt nó.

Khi bơi trở lại chỗ April và Finnley đang chơi, tôi tự hỏi liệu Haydon có thật sự thấy thiên thần chỉ chỗ cho nó đi không, hay sự tương tác của thiên thần với nó tự nhiên và quen thuộc đến mức chẳng khác gì suy nghĩ bên trong của nó. Có phải thiên thần đang chỉ đường cho nó hay chỉ nhẹ nhàng khơi gợi trí tò mò trẻ thơ? Tôi đã định hỏi nó, nhưng hỏi mấy chuyện sâu xa như thế với một đứa bé thì thật không dễ chút nào.

Chúng tôi có nguyên hồ bơi cho riêng mình một lúc. Sau khoảng mười lăm phút chơi đùa, một người phụ nữ khoảng sáu mươi tuổi đến bơi. Bà mặc một bộ đồ tắm liền thân màu xanh nước biển với viền trắng ở vai, đội mũ bơi viền trắng, và đeo kính lặn màu xanh neon. Bà mang theo cặp tay phao màu cam sáng, kẹp ba bốn thanh xốp bơi dưới tay, và cầm hai ván bơi nhỏ bằng xốp. Hồi nhỏ tôi được dạy là không nên nhìn chằm chằm người khác, nhưng lúc đó thật khó để không nhìn.

Người phụ nữ từ từ xuống nước, cẩn thận không để rơi mất đồ. Bà bám vào thành hồ, kẹp thanh xốp dưới hai tay, nằm lên hai ván bơi, cúi đầu khoảng năm phân xuống nước, rồi đạp mạnh khỏi thành hồ bắt đầu bơi. Bà chỉ bơi được khoảng 25 cm thì ngẩng đầu lên, đứng dậy thở hổn hển, nhổ nước và ho sặc sụa. Bà chỉnh lại đống đồ bơi bị xộc xệch và quay về thành hồ. Chẳng mấy chốc bà sẵn sàng cho lần thử thứ hai. Lần này bà bơi được khoảng 30 cm. Lại ho sặc, lại quay về thành hồ, rồi lại bắt đầu. Cứ thế bà lặp lại chu trình này trong bốn mươi lăm phút, chỉ nghỉ đúng thời gian cần để lấy lại hơi thở.

Dù cố gắng tôn trọng sự riêng tư, tôi vẫn không thể không tò mò về chuyện bà đang làm. Không suy nghĩ nhiều, tôi nhìn vào thế giới linh thiêng. Tôi thấy thiên thần của bà đứng ngay trên mặt nước phía trên bà khi bà đạp và bơi. Thiên thần ấy trông không thể phấn khích hơn. Cô ấy nhảy cẫng lên, giơ tay cổ vũ, hét lớn: “Cố lên! Cô làm được mà! Đi đi! Bơi đi!” Trông thiên thần ấy như một phụ huynh đang xem con mình ghi bàn quyết định trong trận chung kết.

Tôi nhìn sang phải một chút thì thấy một con quỷ đang lơ lửng phía trên người phụ nữ. Nó nhỏ thó, gầy guộc, ngón tay nhọn hoắt. Mỗi lần bà cúi đầu xuống nước bắt đầu bơi, con quỷ lại thò tay xuống, chọc và cào vào sau đầu bà. Tôi có thể cảm thấy và nhìn thấy sự độc ác, khinh miệt trong hành động của nó. Nhưng khi nhìn vào mặt nó, tôi không thấy vẻ giận dữ mà là nỗi hoảng loạn tuyệt đối. Nó trông sợ hãi tột độ.

Khi tôi lùi lại để nhìn toàn cảnh—người phụ nữ đang cố hết sức bơi, các dụng cụ lỉnh kỉnh xung quanh; thiên thần nhảy múa cổ vũ; con quỷ đang cào cấu điên cuồng—tôi không thể không hỏi Chúa Thánh Thần: “Chuyện gì đang xảy ra vậy?”

Ngài trả lời không do dự: “Bà ấy đã sợ nước kể từ khi suýt chết đuối năm ba tuổi, nhưng hôm nay bà ấy quyết định đã đến lúc vượt qua nỗi sợ đó.”

Giọng Ngài đầy tự hào như người cha khiến tôi không nói nên lời. Cảm xúc ấy lan truyền đến mức tôi thấy tự hào thay cho bà—vì đã dám bỏ công sức vượt qua điều hẳn đã trở thành một phần quen thuộc trong cuộc sống thường nhật, vì đã cố gắng không chỉ 10 phút mà suốt 45 phút, và vì tiếp tục nỗ lực dù một đứa trẻ ba tuổi đang bơi vòng vòng quanh bà. Tôi tràn ngập niềm vui trước điều bà đang làm.

Sau khi Haydon và tôi bơi thêm một lúc, April vẫy gọi để thay phiên xuống hồ. Tôi lên bờ, ngồi cạnh đứa bé đang ngủ say trong cũi nhỏ.

April thân thiện hơn tôi nhiều. Tôi cố gắng không nhìn người phụ nữ quá lâu, giữ Haydon tránh xa, và ở bên này hồ để bà không bị làm phiền. Nhưng khi April thấy người phụ nữ, nhìn bộ đồ và tất cả vật dụng bà mang theo, cô ấy bơi ngay đến hỏi: “Chào cô! Cô đang làm gì thế?”

Người phụ nữ dừng lại, chỉnh lại mũ bơi, bật cười và nói: “Con biết không, đầu năm nay cô nhận ra mình có quá nhiều ước mơ để cho nỗi sợ kìm chân. Vậy nên cô quyết định năm nay sẽ đối mặt với mọi nỗi sợ. Tuần này cô học bơi, tuần sau cô đi nhảy dù.”

Thật dễ tin rằng Chúa phấn khởi khi ta làm điều lớn lao: khi rao giảng Tin Mừng, khi cầu nguyện và người khác được chữa lành, hay khi nói lời tiên tri giúp ai đó được soi sáng. Cũng dễ tin rằng Chúa vui nếu ta dâng hết của cải cho người nghèo hay đi đến một đất nước nghèo để phục vụ. Nhưng đôi khi lại khó tin rằng Chúa cũng vui khi ta đi làm đúng giờ, thay bóng đèn đã cháy cả tháng, hay chọn nhẹ nhàng với con thay vì nổi giận. Thật khó tin rằng Chúa vui khi ta treo móc khóa gần cửa để khỏi mất chìa khóa, khi ta cải thiện bảng tính ngân sách công ty, hay khi ta nướng được mẻ bánh ngon. Điều đó khó tin vì ta chưa hiểu trọn vẹn tình yêu lớn lao của Ngài.

Mỗi chiến thắng đều được ăn mừng trên trời—dù lớn hay nhỏ. Tại sao? Vì mỗi chiến thắng có tác động vượt xa những gì ta thấy. Người phụ nữ ấy không chỉ học bơi—bà đang học cách vượt qua nỗi sợ. Vượt qua sợ hãi là kỹ năng có thể áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác. Đó là điều bà có thể dạy cho người khác. Con quỷ sợ hãi vì nó đang mất chỗ đứng trong cuộc đời bà. Khe hở của nỗi sợ vốn đã quen thuộc giờ đang bị lấp đầy bằng sự dũng cảm. Vượt qua sợ nước có thể không phải điều vĩ đại nhất, nhưng học cách vượt qua nỗi sợ là một chiến thắng có thể thay đổi cả đời. -- Từ Profound Good: See God Through the Lens of His Love

Những sai lầm các linh mục trừ tà mắc phải

Làm linh mục trừ tà thì rất an toàn, không có gì để sợ cả. Một số người không dám đảm nhận sứ vụ này vì sợ. Điều đó có thể là biểu hiện của sự thiếu đức tin. Hãy tin tưởng nơi Chúa Giêsu! Ngài là Chúa. Satan khiếp sợ Ngài và cũng sợ cả linh mục trừ tà. Như cha Gabriel Amorth – linh mục trừ tà nổi tiếng – từng nói: “Satan sợ tôi!”

Làm linh mục trừ tà giống như làm phi công – cả hai đều rất an toàn… nhưng ma quỷ không nhẹ nhàng khi ta phạm phải sai lầm nặng. Tôi đã từng phạm một số sai sót khi học làm linh mục trừ tà, và hiện giờ vẫn có. May mắn là chưa lỗi lầm nào quá nghiêm trọng và Thiên Chúa đã thương xót tôi. Tuy nhiên, tôi biết có những linh mục trừ tà đã mắc lỗi nặng, thậm chí đánh mất khả năng thi hành sứ vụ linh mục. Dưới đây là một số sai lầm thường gặp:

1. Quên rằng chính Chúa Kitô là Đấng trừ tà

Ma quỷ luôn cố lôi kéo linh mục trừ tà vào cuộc chiến tay đôi. Khi nghe tiếng la hét của chúng trong lúc trừ tà, linh mục có thể có cảm giác mình có “quyền năng”, và quên rằng thực ra chính Chúa Kitô mới là Đấng trừ tà. Kết quả là sự kiêu ngạo phát sinh. Ma quỷ sẽ nghiền nát một linh mục nghĩ rằng mình có thể tự mình đánh bại chúng. Khi ma quỷ cám dỗ tôi nói: “Ô, cha thật có quyền năng,” tôi liền đáp lại: “Không, chính Chúa Giêsu trục xuất ngươi!”

Ngược lại, có linh mục lại nghĩ sứ vụ của mình không hiệu quả, rằng lời cầu nguyện không có tác dụng. Ma quỷ sẽ chế giễu, nhạo báng, nhắc đến tội lỗi quá khứ, gieo nghi ngờ và làm suy giảm lòng tin của linh mục. Đây cũng là một cơn cám dỗ. Linh mục cần nhớ rằng quyền trừ tà không đến từ bản thân, mà do Chúa Kitô trao cho Giáo Hội, và Giám mục ủy quyền cho linh mục. Như lời trong nghi thức trừ tà xưa: “Ta truyền cho ngươi không phải bằng sự yếu đuối của ta, nhưng bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, hãy rời khỏi tôi tớ này của Thiên Chúa.”

2. Mất kiểm soát buổi trừ tà

Ma quỷ sẽ làm mọi cách để phá rối phiên trừ tà. Lời cầu nguyện gây cho chúng nỗi đau đớn khôn cùng và chúng sẽ làm mọi cách để bám trụ lại, không bị trục xuất. Vì thế, chúng sẽ đánh lạc hướng linh mục trừ tà bằng những lời nói vô nghĩa. Chúng sẽ la hét, thốt ra những câu nói gây xao nhãng và những lời đe dọa. Chúng sẽ ném đồ vật trong phòng. Chúng sẽ kích động mâu thuẫn và chia rẽ trong Nhóm hỗ trợ. Thậm chí, chúng còn khiến người bị quỷ ám bay lơ lửng. Tất cả những điều này chỉ là những nỗ lực nhằm phá hỏng buổi trừ tà. Tôi không phải là người thích kiểm soát, nhưng trong một buổi trừ tà, tôi cần phải là người nắm quyền chủ động. Như tôi thường nói với các linh mục mới đang được huấn luyện:: “Nếu cha không nắm quyền chủ động buổi trừ tà, ma quỷ sẽ nắm lấy quyền đó.”

3. Nhầm lẫn giữa bệnh tâm thần và quỷ ám

Đây là một sai lầm rất phổ biến mà các linh mục trừ tà mới thường mắc phải. Những người mắc chứng loạn thần thường nghĩ rằng họ bị quỷ ám – điều này khá phổ biến. Những người bị bệnh tâm thần đôi khi nghe thấy những ý nghĩ ghê tởm, báng bổ và xấu xa trong đầu họ, và cho rằng đó là do ma quỷ. Họ cảm thấy như bị dày vò từ bên trong. Khi được cầu nguyện cho, họ thậm chí còn có thể “biểu hiện” – đôi khi la hét hoặc quằn quại để phản ứng.

Tuy nhiên, một linh mục trừ tà dày dạn kinh nghiệm và có sự nhạy bén thiêng liêng có thể cảm nhận được rằng không hề có sự hiện diện của ma quỷ. Trong những trường hợp này, vị linh mục không cảm thấy có sự hiện diện của sự dữ thuần túy. Hơn nữa, những tiếng la hét và các “biểu hiện” xảy ra trong buổi cầu nguyện, hoàn toàn mang tính con người trong âm thanh và cảm giác.

Thỉnh thoảng, tôi sẽ rảy nước máy chưa làm phép lên người đó và/hoặc đọc vài câu tiếng Latinh vô hại. Những người không bị quỷ ám nhưng lại tin rằng mình bị, đôi khi sẽ cố gắng diễn lại cảnh bị quỷ ám mà họ từng thấy trong phim ảnh. Khi điều này xảy ra, tôi nhẹ nhàng kết thúc phiên trừ tà và đề nghị họ theo một chương trình cầu nguyện liên tục – điều này rất tốt cho bất kỳ người Công giáo đạo đức nào. Nhưng tôi sẽ không tiếp tục các buổi trừ tà nữa.

Nếu vị linh mục trừ tà không phân biệt được giữa bệnh tâm thần và bị quỷ ám, ngài có khả năng sẽ dành RẤT NHIỀU thời gian – thậm chí là nhiều năm – để cầu nguyện cho những người mắc bệnh tâm thần nặng mà không đạt được tiến triển thực sự, hoặc rất ít. Thường thì những người này sẽ KHĂNG KHĂNG đòi hỏi thêm các buổi cầu nguyện và thêm các phiên trừ tà. Trong quá trình đó, các nguồn lực hạn chế của linh mục trừ tà và nhóm hỗ trợ sẽ bị tiêu hao vào một nỗ lực vô ích, thậm chí có thể phản tác dụng.

Người ta có thể suy đoán rằng đây có thể là một trong những mưu mẹo của Satan: khiến linh mục trừ tà và nhóm của ngài kiệt sức trong một công việc vô ích. Thực vậy, một trong những cuộc tấn công của Satan vào vị linh mục trừ tà là đẩy ngài vào trạng thái kiệt quệ. Sứ vụ này vốn đã tiêu hao rất nhiều về mặt thiêng liêng và đòi hỏi sự phân bổ khôn ngoan về thời gian cũng như các nguồn lực giới hạn. Ngày càng có nhiều người khẳng định rằng họ bị quỷ ám và đòi hỏi sự chú ý trực tiếp từ linh mục trừ tà và nhóm hỗ trợ.

Vị linh mục trừ tà cần phải phân định rõ ai là người ngài có thể và nên trợ giúp. Những người mắc các chứng bệnh tâm thần nghiêm trọng hiếm khi bị quỷ ám hoàn toàn, dù họ có biểu hiện giống như bị quỷ ám.

4. Vượt quá giới hạn với người bị quỷ ám

Một linh mục trừ tà thường có một mối quan hệ khá thân thiết với người bị quỷ ám. Họ gặp nhau thường xuyên trong nhiều tháng, có khi nhiều năm. Linh mục sẽ trở nên quen thuộc với những chi tiết rất riêng tư trong cuộc sống của người đó. Những người bị quỷ ám thường là phụ nữ trẻ đến từ những hoàn cảnh bị lạm dụng. Họ thường sợ hãi, dễ tổn thương và cần được giúp đỡ. Vì vậy, hoàn toàn tự nhiên khi họ có xu hướng bám víu vào linh mục trừ tà. Đây là công thức dẫn đến thảm họa.

Trong những năm gần đây, đã có ít nhất vài trường hợp linh mục trừ tà có quan hệ tình dục với người bị quỷ ám. Những trường hợp này được biết đến rộng rãi và đã bị xử lý. Còn có nhiều trường hợp khác, dù không có hành vi thể lý, nhưng mối quan hệ đã trở nên rối rắm và không lành mạnh. Thực tế là, nếu một linh mục trừ tà có mối quan hệ không lành mạnh, quá mức thân mật với người bị quỷ ám – dù không có hành vi cụ thể – thì ngài vẫn có thể bị một số ma quỷ bám lấy. Ma quỷ có thể dùng chính mối quan hệ sai lệch này như một cánh cửa để len lỏi vào đời sống của vị linh mục. Và một trong những ưu tiên hàng đầu của ma quỷ trong các trường hợp quỷ ám là phá hủy ơn gọi linh mục. Điều đó sẽ không chỉ chấm dứt tác vụ trừ tà của vị linh mục ấy, mà còn làm gián đoạn cả những công việc khác mà ngài đang thực hiện.

Nhóm trừ tà của chúng tôi về cơ bản đã giải quyết được nguy cơ tiềm ẩn này. Những phụ nữ bị ảnh hưởng chỉ tương tác với các nữ giáo dân trong nhóm, ngoại trừ trong các buổi trừ tà. Và trong mọi buổi trừ tà, luôn có nhiều thành viên trong nhóm hiện diện, bao gồm cả phụ nữ nếu người được giúp là nữ. Là một linh mục trừ tà, tôi không bao giờ ở một mình với người bị ảnh hưởng. Nếu người đó cần xưng tội hoặc hướng dẫn thiêng liêng, họ sẽ làm việc với cha xứ hoặc người hướng dẫn của mình. Cách làm này đã hoạt động rất hiệu quả để bảo vệ cả người bị ảnh hưởng lẫn các linh mục trừ tà.

5. Bị lừa bởi những “ơn lạ” giả mạo và người nhạy cảm giả

Một trong những mánh khóe phổ biến của Satan là đánh lừa linh mục trừ tà bằng những kinh nghiệm thiêng liêng giả dối.

Chẳng hạn, như đã đề cập trước đó, việc người bị quỷ ám kể rằng họ có những kinh nghiệm huyền nhiệm với Đức Trinh Nữ Maria hoặc có những ân sủng thiêng liêng đặc biệt như tri thức thần bí, mặc khải nội tâm, hay ơn tiên tri là điều khá thường gặp. Chúng tôi luôn nhắc những người bị quỷ ám rằng, nếu họ có một kinh nghiệm thần bí nào đó trong suốt quá trình dài giải thoát, thì họ nên giả định rằng nó đến từ ma quỷ. Chúng tôi nhắc họ rằng Satan có thể – và thường xuyên – đội lốt thiên thần ánh sáng!

Ngoài ra, các linh mục trừ tà thường có những người được xem là có ơn thiêng liêng hỗ trợ trong thừa tác vụ. Thường thì chính những người cho rằng mình có ân huệ đặc biệt sẽ chủ động đến tìm các linh mục trừ tà và đề nghị được giúp đỡ. Tuy nhiên, nhiều người trong số họ lại bị lừa dối – hoặc bởi một thần khí giả, hoặc bởi chính trí tưởng tượng của họ. Những linh mục trừ tà từng dựa vào những người như vậy nhiều lần đã bị dẫn lạc hướng, gây ra hậu quả tiềm ẩn nguy hiểm. Kinh Thánh đã dạy rõ: “Anh em đừng vội tin bất cứ thần khí nào, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa mà đến hay không” (1 Ga 4,1).

Tương tự như vậy, chính các linh mục trừ tà cũng thường bị cám dỗ nghĩ rằng mình có những đặc sủng hay hiểu biết thần bí đặc biệt. Dù quả thật có thể linh mục nhận được những ơn như thế, nhưng chúng cũng có thể đến từ ma quỷ. Một số linh mục trừ tà trở nên kiêu ngạo, tin rằng mình là người đặc biệt, nhất là khi có một số người ngày nay đặt các linh mục trừ tà lên “bệ cao.” Điều đáng ghi nhớ là cha Gabriel Amorth, vị linh mục trừ tà lừng danh của Rôma, chỉ xem mình là một linh mục được trao tác vụ trừ quỷ. Ngài đã thi hành sứ vụ ấy cách trung thành và khiêm nhường trong nhiều năm cho đến khi qua đời.

Làm linh mục trừ tà là một sứ vụ tuyệt vời và chan chứa ân sủng. Giáo luật điều 1172 khuyến nghị Giám mục nên chọn một linh mục “đạo đức, thông hiểu, thận trọng và có đời sống ngay chính.” Một linh mục đang vật lộn với các chứng nghiện ngập, rối loạn cảm xúc, quá khắt khe, thiếu khiết tịnh hay các khó khăn tương tự sẽ không thích hợp cho sứ vụ này. Thêm vào đó, các linh mục trừ tà thường là những người đã lớn tuổi, đã trải qua nhiều thập niên phục vụ và – hy vọng – đã trục xuất được một số “con quỷ” của chính mình. Nếu một linh mục trẻ được mời gọi làm linh mục trừ tà, tôi đặc biệt khuyên vị linh mục ấy nên làm việc dưới sự hướng dẫn của một linh mục trừ tà cao niên.

Chúng tôi đã mất một vài linh mục tốt vì những sai lầm trong khi chiến đấu với Ác Thần. Tôi cầu nguyện để chúng ta không mất thêm ai nữa, và tôi hy vọng of St. Michael Center for Spiritual Renewal sẽ hỗ trợ các linh mục thi hành sứ vụ này với lòng trung tín và sự ngay chính. Như tôi vẫn nói với các tân linh mục trừ tà: Hãy tuân theo quy tắc! Ở lại trong con thuyền (của Giáo Hội Công Giáo)! Hãy tin tưởng và phó thác vào Chúa Giêsu! - Từ My Confrontation with Hell: Real Demonic Encounters of an Exorcist

Đức Maria, Mẹ của Các Nhà Trừ Quỷ

Tôi chưa bao giờ nghe đến việc Chúa Giêsu đích thân hiện ra trong một buổi trừ quỷ và trực tiếp đuổi quỷ ra khỏi người bị ám. Có thể điều đó đã xảy ra, nhưng tôi thì chưa từng được nghe đến. Những nhà trừ quỷ khác mà tôi từng thảo luận về vấn đề này đều có cùng một trải nghiệm như tôi.

Tất nhiên, chính nhờ Danh Thánh Giêsu mà ma quỷ bị trục xuất. Gần đây, một người bị quỷ ám đã nói với tôi rằng mỗi khi tôi đọc Danh Thánh Giêsu, quỷ “thực sự nổi giận” và cảm thấy Danh Thánh ấy làm chúng “rất đau đớn.” Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu chính là cuộc trừ quỷ cơ bản nhất, Chúa đã nghiền nát vương quốc của Satan. Danh Thánh Chúa Giêsu và quyền năng của Người đã xua đuổi ma quỷ. Vậy tại sao Người không đích thân hiện ra trong các buổi trừ quỷ?

Việc hiểu rõ Satan là ai và hình phạt dành cho nó là điều quan trọng. Satan đã từng tìm cách đặt mình ngang hàng với Thiên Chúa. Một lời nguyện trong nghi thức trừ quỷ đã nói với Satan: “Trong sự kiêu ngạo tột cùng của ngươi, ngươi vẫn dám cho rằng mình ngang hàng với Thiên Chúa.” Chúng ta có thể suy đoán rằng nếu Chúa Giêsu, Thiên-Chúa-làm-người, đích thân hiện ra để trục xuất Satan, thì điều đó có thể củng cố ảo tưởng của Satan rằng nó có thể đối đầu với Thiên Chúa, ngang hàng và dám thách thức Người. Nhưng Satan chỉ là bụi đất so với Chúa Giêsu; hắn là một thụ tạo thấp hèn, và còn tự hạ thấp mình hơn nữa vì ác độc của hắn.

Ngoài ra, các nhà thần học thường gợi ý rằng một trong những lý do ban đầu khiến Satan phản loạn là vì mầu nhiệm Nhập Thể. Đối với Satan, việc Thiên Chúa chọn tôn vinh bản tính nhân loại — vốn thấp kém — thay vì bản tính thiên thần cao quý của nó là một sự sỉ nhục. Sự kiêu ngạo và ganh tị của Satan khiến nó mù quáng và giận dữ chống lại Chúa Giêsu và toàn thể nhân loại, rồi dốc hết sức để hủy diệt con người.

Đáp lại, Chúa Giêsu sai một người phụ nữ “thấp hèn” từ Trung Đông để trục xuất hắn. Vũ khí duy nhất của Mẹ là tình yêu Mẹ dành cho Chúa Giêsu, sự khiêm nhường tuyệt đối và lòng vâng phục Thiên Chúa. Chính trong những điều ấy mà chúng ta — loài người — chiến thắng sự dữ. Theo công lý của Chúa, Satan đang phải đối diện với một chân lý mà nó chưa bao giờ học được: quyền năng đích thực thuộc về một Thiên Chúa khiêm nhu, yêu thương và tự hiến. Như thánh Phaolô nói: “Tôi rất vui mừng tự hào về những yếu đuối của tôi, để quyền năng của Đức Kitô ở lại trong tôi” (2 Cr 12,9).

Tôi tin rằng vai trò dẫn đầu trong sứ vụ trừ quỷ đã được Thiên Chúa trao phó cho Đức Maria Rất Thánh, một trong những con người khiêm hạ mà Satan căm ghét nhất. Mẹ là Mẹ của các nhà trừ quỷ. Tôi tin Mẹ luôn hiện diện cách thiêng liêng trong mỗi buổi trừ quỷ, và nhiều khi sự hiện diện của Mẹ còn được cảm nghiệm rõ ràng trong việc trục xuất Satan.

Gần đây, một nhà trừ quỷ trong nhóm chúng tôi đã trải qua một phiên trừ quỷ khó khăn. Cha ấy muốn buộc lũ quỷ phải đối diện với sự thật — điều mà đối với chúng vô cùng đau đớn và khủng khiếp, nhưng cũng rất hiệu quả về mặt trừ quỷ. Đặc biệt hiệu quả khi bắt chúng nhìn nhận sự thật về Đức Mẹ. Cha truyền lệnh: “Hãy nói cho ta sự thật. Nhân danh Chúa Giêsu: tước hiệu cao cả nhất của Đức Mẹ là gì?” Chúng từ chối trả lời: “Tôi không thể nói được!” Cha hỏi lại: “Tại sao không?” Lũ quỷ đáp: “Nó thiêu đốt tôi.” Vị trừ quỷ liền ra lệnh: “Ta truyền ngươi phải nói!” Cuối cùng, trong tuyệt vọng và nước mắt, chúng gào lên: “Mẹ!” “Mẹ của ai?” cha hỏi tiếp. Với khuôn mặt tuyệt vọng và đau đớn, chúng rít lên: “Mẹ Thiên Chúa.” Việc phải nói điều đó khiến chúng quằn quại trong đau đớn.

Tương tự, trong một phiên khác, vị trừ quỷ hỏi lũ quỷ: “Đức Trinh Nữ Maria có xinh đẹp không?” “KHÔNG! KHÔNG! KHÔNG!” chúng gào thét. Cha nhấn mạnh: “Nhân danh Chúa Giêsu, hãy nói sự thật. Mẹ có xinh đẹp không?” Trong cơn giận dữ, sợ hãi và kính nể, chúng miễn cưỡng đáp: “Bà là thụ tạo đẹp nhất trong toàn thể tạo thành.” Sau đó chúng gào rú điên cuồng. Dù chúng ta luôn phải thận trọng với những gì ma quỷ nói, bởi chúng là những kẻ dối trá cố hữu, nhưng đôi khi Thiên Chúa buộc chúng phải nói sự thật.

Đức Maria Vô Nhiễm mang trong mình sự hiện diện của Con Mẹ, Chúa Giêsu. Mẹ mang Chúa Giêsu trong trái tim Mẹ. Mẹ là Hòm Bia Giao Ước thật. Mẹ là người môn đệ hoàn hảo, và chính sự hiện diện của Đức Kitô trong Mẹ mang một sức mạnh trừ quỷ vô song. Ma quỷ không thể chịu đựng được sự hiện diện thánh thiện, khiêm nhu và vâng phục ấy. Chúng thậm chí không thể thốt ra tên của Mẹ mà không bị đau đớn cùng cực.

Cách đây không lâu, chúng tôi gặp một trường hợp vô cùng nghiêm trọng. Một thiếu nữ bị hàng trăm con quỷ ám, dẫn đầu là Satan. Nhưng trường hợp càng khó, ân sủng Chúa ban càng lớn. Tôi biết rằng lần này chúng tôi cần sự trợ giúp mạnh mẽ nhất mà Thiên Chúa có thể gửi đến. Sau vô số giờ cầu nguyện và chiến đấu đau đớn, chúng tôi tiến gần đến hồi kết. Lũ quỷ đã yếu dần và dù không muốn, chúng trở nên dễ điều khiển hơn. Tôi ra lệnh: “Nhân danh Chúa Giêsu, hãy nói: Khi nào các ngươi sẽ rời khỏi đây, và bởi ai?” Chúng miễn cưỡng trả lời một ngày cách đó hai tuần và nói: “Bà ấy sẽ đến.” Tất cả những người trong phòng đều biết “Bà ấy” là ai. Quỷ không thể nói ra tên của Mẹ Thiên Chúa. Tên của Mẹ, cũng như tên của Con Mẹ, là danh thánh.

Ngày hôm đó đến. Căn phòng trở nên im lặng lạ thường. Người bị ám nói: “Bà ấy đã đến.” Khi Đức Trinh Nữ âm thầm tiến lại gần, lũ quỷ bắt đầu co giật dữ dội. Mẹ không nói gì, nhưng ánh sáng rạng ngời của Đức Kitô chiếu tỏa qua người nữ tỳ khiêm nhường của Thiên Chúa đủ để áp đảo tất cả. Chính Satan đã thét lên. Sau nhiều tiếng gào thét và co giật, Hoàng tử của Bóng tối đã rút lui. Mọi chuyện đã kết thúc.

Từ đó, tôi khuyên tất cả những người bị quỷ ám hãy tận hiến bản thân cho Mẹ Thiên Chúa như một phần của tiến trình chữa lành. Chúng tôi xin Mẹ không chỉ trừ khử ma quỷ mà còn gìn giữ linh hồn ấy suốt cuộc đời họ, cho đến khi Mẹ đón họ vào Nước Trời. Cửa hỏa ngục sẽ không thắng được Hội Thánh, cũng không thắng được Mẹ của Hội Thánh.

Tôi chưa từng biết một nhà trừ quỷ lão luyện nào mà không có lòng sùng kính sâu sắc, chân thành đối với Mẹ Thiên Chúa. Thật vậy, tôi nói với các tân trừ quỷ rằng lòng sùng kính này không phải là một việc đạo đức tùy chọn trong sứ vụ, mà là điều thiết yếu. Chúng tôi bắt đầu mỗi buổi trừ quỷ bằng việc kêu cầu sự trợ giúp của Mẹ Thiên Chúa đầy quyền năng. Như Nghi thức Trừ Quỷ đã nhắc nhở Satan về hình phạt đời đời của nó: “Từ giây phút đầu tiên khi Mẹ được thụ thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ đã đạp nát cái đầu kiêu ngạo của ngươi!” -- Trích từ My Confrontation with Hell: Real Demonic Encounters of an Exorcist

Chó và quỷ

TÔI THÍCH CHÓ. Tôi có một con chó khi lớn lên, và nó đem lại ảnh hưởng tuyệt vời cho gia đình tôi... Tôi nhớ lại một lần chạm trán với quỷ dữ cách đây không lâu, khi tôi đang ra lệnh cho chúng phải vâng lời. Mỗi khi chúng không tuân theo, tôi lại rảy nước thánh lên chúng. Tôi giải thích với một thành viên trong nhóm rằng: đối phó với quỷ cũng giống như huấn luyện những con thú bất trị – chúng phải được dạy dỗ.

Ngay lúc đó, lũ quỷ tỏ ra bị xúc phạm và tức giận. Chúng nói: “Ta không phải là chó!” Tôi đáp lại: “Đúng, mày không phải là chó! Mày không xứng đáng với danh xưng đó. Chó thì tử tế, biết vâng lời và trung thành. Mày KHÔNG có một điều nào trong số đó. Mày không xứng đáng được gọi là chó.” Phản ứng của lũ quỷ? Im lặng.

Trong sứ vụ trừ tà của chúng tôi, đôi khi chúng tôi chứng kiến những tác động tích cực của chó. Ví dụ, có một cô gái trẻ từng bị quỷ ám và nghiện ma túy. Câu chuyện bắt đầu từ khi cô còn nhỏ, với người mẹ là một người nghiện cocaine và là người hành nghề tà thuật. Người mẹ đã thú nhận từng bỏ cocaine và các loại ma túy khác vào sữa của con để “điều khiển nó”. Người mẹ cũng đã hiến dâng cô cho Satan. Không lâu sau đó, người mẹ chết lúc chỉ 20 tuổi. Cô bé được nhận nuôi và sau một cuộc chiến dài với nhiều buổi trừ tà, cuối cùng cô đã thoát khỏi ma túy và được giải thoát khỏi sự thống trị của Quỷ Dữ.

Tuy nhiên, hậu quả của việc bị lạm dụng ma túy từ rất sớm là gây nên những tổn hại nặng nề. Khả năng tư duy và giao tiếp xã hội của cô bị hạn chế. Cô gặp khó khăn trong việc có các mối quan hệ lành mạnh và thường cô lập bản thân – điều này khiến cô dễ tái nghiện và dễ bị quỷ thao túng hơn.

Người cha nuôi của cô đã sáng suốt khi tặng cho cô một con chó. Cô rất yêu thương con chó, thường xuyên gửi ảnh cô và con chó cho người thân. Cô và con chó của cô không thể tách rời nhau. Người cha nói: “Điều tuyệt vời nhất tôi đã làm là cứu con chó ấy.” Ông nói thêm: “Giờ thì con bé có nếp sống ổn định, đang học cách chịu trách nhiệm [nhờ con chó], và nhận được sự hỗ trợ tinh thần.” Chú chó ấy còn mang lại cho cô sự ổn định cảm xúc mà trước đây cô chưa từng có – điều rất quan trọng cho sự tự do lâu dài khỏi quỷ và ma túy.

Lũ quỷ nhận thấy ảnh hưởng tích cực của con chó và rất tức giận. Sau khi cô được giải thoát, chúng đã hết sức cố gắng để lôi kéo cô trở lại, và một trong những trở ngại chính là... con chó. Chúng gửi tin nhắn tức giận bằng chữ in hoa [đến với tôi]: “NÓ ĐÁNG LẼ KHÔNG BAO GIỜ ĐƯỢC PHÉP TÌM THẤY CON CHÓ ẤY!” Một tâm hồn bình an và mãn nguyện không cần cậy nhờ đến lũ quỷ – và chúng biết rõ điều đó.

Một người phụ nữ khác từng có trải nghiệm với quỷ đã gửi cho tôi lời chứng cá nhân:

“Qua nhiều năm, tôi đã chứng kiến và đọc biết bao câu chuyện về việc một con vật – đặc biệt là chó – đã trở thành một ân sủng tuyệt vời trong cuộc đời của ai đó. Mỗi chúng ta đều có một thiên thần hộ mệnh canh giữ 24/7. Tôi tin rằng đôi khi thiên thần hộ mệnh can thiệp vào cuộc đời chúng ta bằng cách gửi đến một người bạn bốn chân như thế.”

Trích từ My Confrontation with Hell: Real Demonic Encounters of an Exorcist

Ơn Tha Thứ Tông Tòa Mang Lại Ơn Toàn Xá Trước Khi Qua Đời

NIỀM AN ỦI CHO NGƯỜI HẤP HỐI. Ơn tha thứ tông tòa là một ân xá để tha mọi hình phạt tạm thời do tội gây ra, được ban cho người sắp qua đời đang ở trong tình trạng ân sủng.

Khi vị linh mục tuyên uý Công giáo đi thăm các bệnh nhân tại Bệnh viện St. Alexius ở Bismarck, North Dakota, cha bước vào phòng của bà Anne Ulmen, 95 tuổi, người vừa mới bị đột quỵ. Con gái bà, Margaret Sitte, đã hỏi vị linh mục liệu ngài có thể ban các bí tích sau hết cho mẹ cô không. Các bí tích này bao gồm: giải tội, xức dầu bệnh nhân, và của ăn đàng (rước lễ lần cuối, như lương thực cho cuộc hành trình vĩnh cửu).

“Chị có muốn tôi ban cho bà cụ Ơn Tha Thứ Tông Tòa không?” vị linh mục hỏi. Dù Sitte là người Công giáo suốt đời, cô chưa từng nghe về điều này. Vị linh mục giải thích rằng đây là một ân xá tha mọi hình phạt tạm thời do tội lỗi, được ban cho người sắp qua đời đang trong tình trạng ân sủng.

Nói cách khác, giống như Chúa Giêsu đã hứa với người trộm lành vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh rằng “hôm nay anh sẽ ở với Ta trên thiên đàng,” thì người Công giáo chuẩn bị tâm hồn xứng đáng và lãnh nhận ơn tha thứ tông tòa cũng sẽ được vào thiên đàng.

Ơn Toàn Xá

Ơn tha thứ tông tòa thường được ban cùng với các bí tích sau hết. Sách Hướng Dẫn về Ân Xá, số 28 viết:

“Các linh mục chăm sóc các tín hữu Công giáo trong tình trạng nguy tử không được bỏ qua việc ban phép lành tông tòa, kèm theo ơn toàn xá.”

“Nhưng nếu không có linh mục hiện diện, Mẹ Giáo hội vẫn rộng lòng ban ơn toàn xá cho người sắp qua đời, nếu họ sống trong ân sủng và từng cầu nguyện trong cuộc sống. Việc sử dụng thánh giá hay tượng chịu nạn được khuyến khích khi lãnh nhận ơn toàn xá này. Trong trường hợp khẩn cấp như vậy, ba điều kiện thông thường để được ơn toàn xá (xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng) sẽ được thay thế bằng điều kiện: ‘đã cầu nguyện thường xuyên trong cuộc đời.’”

Khi Sitte hiểu ý nghĩa của ơn tha thứ tông tòa, cô lập tức đồng ý.

“Ai lại không muốn chứ?” cô nói. “Việc ấy mang đến cho mẹ tôi sự an ủi rất lớn. Bà không sợ chết, nhưng tôi cảm nhận rằng bài nguyện ấy đã đem lại cho bà một sự bình an sâu xa.”

Dù bà Ulmen không được kỳ vọng sống lâu hơn, nhưng sau đó bà đã được xuất viện và sống thêm ba tháng.

Một Tình Huống Khẩn Cấp

Năm 2006, khi Eric Bergman nghĩ rằng mình sắp chết, điều đầu tiên anh nghĩ đến là lãnh nhận các bí tích cuối đời. Là một cựu linh mục Anh giáo ở Scranton, Pennsylvania, anh và vợ Kristina chỉ mới gia nhập Giáo hội Công giáo hai tháng trước đó.

Nhiều năm liền, Bergman phải chịu đựng những cơn đau do viêm túi mật bị chẩn đoán sai. Ngày 14/1/2006, anh lên cơn đau dữ dội chưa từng có và được đưa đi cấp cứu. Bác sĩ cho biết túi mật phải được cắt bỏ ngay lập tức.

Đức ông William Feldcamp đến ban các bí tích trong khi Bergman đang được chụp cắt lớp. “Cha sẽ giải tội cho tôi, nên xin cô ra ngoài,” anh nói với kỹ thuật viên.

“Không, tôi không thể rời phòng trong lúc thủ thuật đang tiến hành,” cô đáp.

Bergman nhìn vị linh mục đầy lo lắng. “Đừng lo,” Đức ông nói. “Cha sẽ xức dầu cho con bây giờ, còn xưng tội thì để sau.”

Ngay trước khi Bergman được đưa vào phòng mổ, Đức Cha John Dougherty đã đến bệnh viện để nghe anh xưng tội và cầu nguyện cho anh.

“Tôi biết mình phải sẵn sàng, và tôi cảm thấy mình đã sẵn sàng,” anh nói. “Tôi bình an. Tôi không lo cho bản thân, nhưng tôi nghĩ về vợ và ba đứa con.”

Khi tỉnh lại trong phòng hồi sức, vợ anh đang khóc nức nở bên giường.

“Có chuyện gì sao?” anh hỏi.

“Không, không có gì cả,” cô khóc. “Em chỉ mừng vì anh còn sống.”

Bergman tin rằng chính quyền năng của các bí tích đã chữa lành anh.

Bergman hồi phục và mạnh khoẻ hơn trước, nhờ đó anh được truyền chức phó tế vào ngày 24/3/2007. Sau đó, ngày 21/4/2007, nhờ “Quy Định Mục Vụ” của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, anh được truyền chức linh mục. Vì 50 thành viên trong cộng đoàn cũ đã theo anh vào Giáo hội, Cha Bergman giờ đang chăm sóc chính những người anh từng hướng dẫn khi còn là mục sư Anh giáo. Bergman hiện là chánh xứ St. Thomas More tại Nhà thờ St. Joseph, Scranton, thuộc giáo phận đặc biệt Ordinariate of the Chair of St. Peter.

“Tôi từng là tuyên úy tại Bệnh viện Mercy ở Scranton suốt một năm và vẫn thường xuyên trực đêm,” cha kể. “Chỉ mới đêm qua, lúc 3 giờ sáng, tôi đã ban các bí tích cuối cùng và Ơn Tha Thứ Tông Tòa.”

Lời cầu nguyện của ơn tha thứ tông tòa được đọc sau khi các bí tích đã được ban.

“Lần sau khi tôi dâng lễ,” Cha Bergman nói, “tôi sẽ nhớ đến linh hồn người hấp hối như là ý lễ riêng cho ngày đó, với niềm bình an sâu sắc vì chúng ta đã làm tất cả những gì có thể, và tin tưởng rằng lòng thương xót của Chúa sẽ được tuôn đổ trên linh hồn người quá cố.”

Cha Bergman nói thật đáng tiếc khi nhiều người không biết hoặc không xin lãnh nhận ơn này.

“Một số người dán hình ảnh linh mục trong bệnh viện với cái chết, nên họ cứ chần chừ đến khi hoàn toàn chắc chắn người thân đang hấp hối,” cha nói. “Tôi không thể đếm hết số lần mình được gọi đến bệnh viện thì người đó đã qua đời, chỉ vì gia đình gọi quá muộn.”

Ngài cho biết: các bí tích nên được ban ngay khi có nguy cơ tử vong, không nên chờ đến phút cuối.

Ngài cũng kể lại nhiều trải nghiệm xúc động: một người đàn ông đã cố gắng cầm cự cho đến khi được xức dầu trán và tay, rồi mới trút hơi thở cuối cùng ngay sau đó.

“Một lần khác,” Cha Bergman nói, “tôi vừa xức dầu xong thì bác sĩ bước vào tuyên bố người đó đã chết. Nhưng máy theo dõi vẫn hiển thị nhịp tim mỗi 20 giây. Ông ta chưa chết, nên tôi đã kịp xức dầu. Sau đó, một nữ tu trong bệnh viện kể lại: ‘Người mà chúng con gọi Cha đến giữa đêm qua—sáng nay ông ấy tự bước ra khỏi bệnh viện rồi.’”

Cha Bergman chia sẻ: bí tích này chuẩn bị tâm hồn người ta để về đời sau, nhưng cũng có thể mang đến sự chữa lành thể xác. “Đây là một bí tích mà nhiều người nên chủ động xin.”

Ngài nói thêm: “Chúng ta đừng quên giáo huấn của Giáo hội rằng sự đền bù cho tội lỗi luôn đi kèm với việc được tha thứ qua bí tích hòa giải. Ơn Tha Thứ Tông Tòa là cách Giáo hội áp dụng kho tàng công nghiệp thiêng liêng của mình cho chúng ta trong giờ sau hết, khi ta không còn nhiều thời gian ở đời này để đền tội. Vì phần rỗi linh hồn của người thân yêu, các gia đình nên xin ơn này từ Mẹ Giáo hội, trong trường hợp linh mục không tự động ban khi cử hành bí tích sau hết.”

Hai lời nguyện tông tòa diễn tả ý nghĩa của ơn này như sau:

“Nhờ các mầu nhiệm của ơn cứu chuộc, xin Thiên Chúa Toàn Năng giải thoát con khỏi mọi hình phạt ở đời này và đời sau. Xin Chúa mở cánh cửa thiên đàng và đón nhận con vào niềm vui vĩnh cửu.”

“Nhờ quyền năng được ban từ Tòa Thánh Tông Tòa, Cha ban cho con ơn tha thứ hoàn toàn và xá giải mọi tội lỗi, nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.”

Chuyền ngữ từ Apostolic Pardon Brings Total Forgiveness Before Death

Não Bộ Bị Quỷ Ám (Demon Brain)

Tôi ngày càng nhận ra rằng, không chỉ một vài người, mà rất nhiều người đang phải chịu đựng sự dằn vặt tâm trí kéo dài vì tội lỗi hay những thất bại trong quá khứ. Thực chất, nhiều trường hợp trong số đó không đơn thuần là tâm lý, mà có thể là một hình thức ám ảnh của sự dữ – điều mà chúng tôi gọi là “não bộ bị quỷ ám.”

Trong y học tâm thần, có một rối loạn gọi là rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD – obsessive compulsive disorder), khi một người cứ lặp đi lặp lại suy nghĩ ám ảnh về một lỗi lầm (có thể có thật, có thể do tưởng tượng) trong quá khứ. Ở những trường hợp nghiêm trọng hơn, những suy nghĩ ám ảnh này cùng với nỗ lực bất thành để loại bỏ chúng (hành vi cưỡng chế) có thể khiến người ta suy sụp. Những người như vậy thường cần được điều trị bằng liệu pháp hành vi nhận thức (CBT – Cognitive-Behavioral Therapy) kết hợp với thuốc men.

Tuy nhiên, đôi khi, ẩn bên dưới những triệu chứng của OCD, lại là một cuộc tấn công thật sự từ Sự Dữ. Một linh mục trừ quỷ lâu năm từng ước tính rằng khoảng 25% dân số đang chịu ảnh hưởng của một hình thức ám ảnh từ quỷ dữ. Tôi không có lý do gì để cho rằng con số đó là phóng đại.

Chẳng hạn, “John” bị dày vò bởi những ý nghĩ ghê tởm và phạm thượng đến mức anh không còn có thể sinh hoạt bình thường. Nhiều năm trị liệu tâm lý không đem lại hiệu quả. Điều đáng chú ý là những ám ảnh ấy bắt đầu sau khi anh ta tái phạm tội xem phim khiêu dâm. Sau khi xưng tội, hoán cải đời sống, và tham gia vài buổi cầu nguyện giải thoát, những ám ảnh tinh thần gần như biến mất.

Tương tự, “Alicia” bị dằn vặt bởi những tư tưởng tự ghét bản thân và tuyệt vọng đến mức nhiều lần đứng trước ranh giới tự tử. Dù trị liệu tâm lý có hỗ trợ phần nào, nhưng những cuộc tấn công tinh thần mà cô trải qua vượt xa triệu chứng tâm lý thông thường. Đặc biệt, những tấn công ấy thường xảy ra khi cô cố gắng cầu nguyện hoặc tham dự Thánh Lễ. Alicia cũng tìm thấy sự bình an đáng kể nhờ vào việc chủ động từ chối những tư tưởng của quỷ và tham gia các buổi cầu nguyện giải thoát.

Trong cả hai trường hợp, những ám ảnh tinh thần không hoàn toàn biến mất, bởi vì chúng có gốc rễ trong những yếu đuối tâm lý tự nhiên của họ. Tuy nhiên, điều rõ ràng là Satan, kẻ không bỏ qua một cơ hội, đã lợi dụng điểm yếu con người của họ. Hắn khuếch đại những điểm yếu ấy đến mức khiến họ mất khả năng sống bình thường, rơi vào tuyệt vọng, và nghĩ đến tự sát. Giờ đây, John và Alicia chỉ còn chịu đựng những yếu đuối tự nhiên – giống như bao người khác. Nhờ họ sống đời sống bí tích và cầu nguyện, các cuộc tấn công tinh thần dữ dội từ ma quỷ đã suy yếu rõ rệt.

Sự ám ảnh của ma quỷ có thể được phân biệt với những suy nghĩ ám ảnh do rối loạn tâm lý (OCD) bằng mức độ dữ dội, tính không tương xứng với trạng thái tâm lý con người, và sự hung hãn trong cuộc tấn công tinh thần. Ngoài ra, thường có một “lối mở” cho ma quỷ xâm nhập, có thể xác định được, đặc biệt là qua những hành vi tội lỗi gần nhất hoặc việc dính dáng đến tà thuật. Cuối cùng, cường độ của các cuộc tấn công tinh thần thường suy giảm rõ rệt sau các buổi cầu nguyện giải thoát.

Khi phân định xem một người có vấn đề tâm linh hay không, tôi thường hỏi: “Bạn nghe thấy những thông điệp gì trong đầu?” Qua nhiều năm, tôi đã thấy những người bị quỷ ám – dù ở mức độ bị chiếm hữu hay bị ám ảnh – liên tục nghe 6 thông điệp căn bản từ ma quỷ. Chúng thì thầm (hoặc gào thét!) những điều này trong đầu họ không ngừng:

  1. Mày là một tên khốn nạn.
  2. Mày vô vọng rồi.
  3. Thiên Chúa không quan tâm đến mày.
  4. Mày thuộc về tao. Tao sẽ không bao giờ rời đi.
  5. Mày sẽ xuống hoả ngục.
  6. Mày nên tự sát.

Có một chút tiêu cực như thế tồn tại trong tất cả chúng ta – vì tất cả chúng ta đều mang thương tích của Tội Nguyên Tổ. Nhưng khi Satan trực tiếp hành động, những thông điệp ấy vang dội, lặp đi lặp lại và không hề ngớt. Cá nhân tôi tin rằng không ít người đã tự kết liễu đời mình vì bị những trận chiến tinh thần này bào mòn trong nhiều năm. Và bi thảm thay, trong hoả ngục – nơi Satan và bè lũ không bị xiềng xích kiềm chế – các linh hồn sẽ bị dày vò bởi những tư tưởng ma quỷ ấy mãi mãi.

Phải làm gì trong đời này? Tôi khuyên con người phải đối mặt với điều này cả trên bình diện tự nhiên và siêu nhiên.

Ở cấp độ tự nhiên, Satan tìm được chỗ đứng trong tâm trí con người qua yếu đuối và tội lỗi của họ. Tâm hồn càng tổn thương, thì những lời nói tiêu cực trong đầu càng mạnh mẽ. Ma quỷ sẽ khai thác điểm yếu đó.

Vì thế, chúng ta nên sử dụng các phương pháp tự nhiên và nhân bản để đối phó với tình trạng tiêu cực trong tâm trí này. Chẳng hạn, nhiều biện pháp can thiệp nhận thức – hành vi (CBT) có thể mang lại hiệu quả. Có rất nhiều tài liệu và phương pháp này có sẵn trên mạng. Việc tham vấn với một chuyên gia được cấp phép, người có đức tin, cũng có thể giúp chữa lành từ gốc rễ. Đối với những trường hợp nghiêm trọng hơn, thuốc điều trị suy nghĩ ám ảnh – cưỡng chế (OCD) có thể được chỉ định.

Tuy nhiên, đối với những người đang chịu đựng tình trạng “não bị quỷ ám” – tức là Satan đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến những tư tưởng trong đầu họ – thì một chương trình cầu nguyện giải thoát, kết hợp với việc lãnh nhận các bí tích và đời sống cầu nguyện, là rất cần thiết và không thể thiếu.

Vào cuối đời, cuộc tấn công ám ảnh của quỷ thường không còn ẩn giấu nữa. Khi linh hồn bước vào phán xét cuối cùng, Satan – kẻ tố cáo ta trước toà Chúa – sẽ tố cáo mọi bất trung của linh hồn trước mặt Thiên Chúa. Hắn đòi hỏi linh hồn đó phải bị ném xuống hoả ngục. Như Thánh Catarina thành Siena ghi lại trong tác phẩm Đối thoại, Chúa đã mặc khải cho ngài: “Trong giờ chết... ma quỷ tố cáo họ bằng nỗi kinh hoàng và bóng tối lớn lao... nó hành hạ họ với những bất trung nhằm đưa họ đến tuyệt vọng.”

Linh hồn chỉ còn một nơi nương náu – đó là lòng thương xót của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu đã trả giá cho tội lỗi chúng ta. Chúng ta được cứu trong đời này và cả đời sau, nhờ tình yêu của Thiên Chúa nhân từ và hy tế của Con Một Ngài.

Satan chỉ có thể trao cho con người những gì hắn sở hữu: sự tuyệt vọng, tự ghét bản thân và đau khổ.

Phương thuốc cuối cùng chống lại những thông điệp của Satan và “não bộ bị quỷ ám” chính là Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Trận chiến siêu nhiên này chỉ có thể được giải quyết cách trọn vẹn trong bình diện siêu nhiên.

“Khi chúng ta thực sự nhận biết trong tâm hồn rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta cách cá vị, và rằng chúng ta được cứu bởi Máu của Con Chiên, thì tâm trí chúng ta sẽ hoàn toàn được bình an.”

Trích từ My Confrontation with Hell: Real Demonic Encounters of an Exorcist

Đen hơn cả màu đen, kinh hoàng vượt quá ngôn từ

“Khi cô nhìn thấy quỷ,” tôi [Msgr Rossetti] hỏi cô ấy, “chúng có dạng nào?” Cô trả lời: “Chúng đen hơn cả màu đen và xấu xí đến mức không thể tả. Các phim kinh dị không thể đến gần mức kinh hoàng thực sự của chúng.” Tôi yêu cầu cô mô tả chi tiết hơn, và cô nói: “Các quỷ dữ trông méo mó và dị dạng. Một số có móng vuốt thay vì bàn tay; số khác có sừng; một vài con có đuôi. Nếu chúng có hai mắt hoặc các chi quen thuộc, thì những phần ấy cũng bị biến dạng. Tất cả bọn chúng giống như những con thú trần truồng, hung dữ và xấu xí. Hầu hết bọn chúng không có thân thể, chỉ là những khối đen vô hình dạng.” Allie có một “đặc sủng” là thực sự thấy được các quỷ dữ, điều mà chúng tôi đã kiểm chứng nhiều lần, và tôi không hề nghi ngờ là những gì cô mô tả là thật.

Tôi đã nghe một câu chuyện sau đây, dù không thể xác minh, nhưng tôi có thể xác tín là thật. Một người phụ nữ đã cầu xin được thấy con quỷ mà Satan đã chỉ định để quản một thành phố lớn. (Mỗi thành phố và quốc gia đều có một thiên thần được Thiên Chúa sai đến bảo vệ. Satan bắt chước và đảo ngược hành động của Thiên Chúa; hắn cũng chỉ định một con quỷ cho mỗi thành phố và quốc gia.) Lời cầu xin của cô, dù có thể không phù hợp, đã được chấp thuận, và thị kiến đó kinh hoàng đến nỗi cô bị đau tim và phải nhập viện. Nhiều người tuyên bố họ đã nhìn thấy quỷ, nhưng nếu họ đã thực sự thấy, thì họ không thấy được bản chất thực của chúng. Nếu họ nhìn thấy các quỷ trong bản chất thật của chúng, họ sẽ không thể chịu đựng nổi, như người phụ nữ kia đã trải qua. Allie có một đặc sủng đặc biệt từ Thiên Chúa để thấy chúng, một ân sủng mà cô không hề cầu xin. Và cô cũng có một ân sủng quan trọng là được bảo vệ để chịu đựng được cảnh tượng kinh hoàng như vậy.

Lý do các quỷ dữ lại ghê tởm đến thế là vì mỗi tội lỗi đều ghê tởm và là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa đầy yêu thương và thánh thiện vô cùng. Là người, chúng ta thực sự không thể nắm bắt được sự kinh khủng và mức độ xúc phạm vô biên của tội lỗi, kể cả những “tội nhỏ” của mình. Thật ra, không có tội nào là “nhỏ.” Một kinh nghiệm chung của các vị thần bí thánh thiện là họ cảm nghiệm được sự ghê tởm của tội lỗi mình và nhận ra rằng họ thật sự đáng bị hư mất đời đời, nếu không nhờ ân huệ cứu độ tuyệt vời của Chúa Kitô. Chẳng hạn, trước khi thánh Gemma nhận dấu thánh (năm dấu thương của Chúa Giêsu), Thiên Chúa đã giúp thánh nữ với nhân đức khiêm nhường bằng cách cho thánh thấy phần nào sự xấu xa thực sự của tội lỗi mình. Ngài viết: “Đột nhiên... con cảm thấy một nỗi sầu khổ nội tâm vì các tội lỗi của mình sâu sắc hơn bao giờ hết. Thật ra, nó làm con gần như chết... Trí khôn con không nghĩ được gì ngoài tội lỗi của mình và sự xúc phạm mà chúng gây ra cho Thiên Chúa.”[1]

Vì thế, tội lỗi và quỷ dữ thật sự xấu xí lời không thể tả. Trong thừa tác trừ tà, đôi khi chúng tôi cảm nghiệm được sự ghê tởm của hỏa ngục. Chẳng hạn, trong một buổi trừ tà, một linh mục đến trễ. Khi bước vào phòng, ngài nói: “Mùi gì mà kinh khủng thế?” Ngài nói trong phòng có mùi hôi thối của cái chết và sự phân hủy. Tương tự, trong thị kiến về hỏa ngục của Allie, cô nói: “Mùi đó... thật khủng khiếp. Nó làm tôi buồn nôn.” Thánh Faustina cũng từng nói rằng trong thị kiến về hỏa ngục, có một “bóng tối dày đặc và mùi hôi ngột ngạt kinh tởm.”[2]

Thấy quỷ, đặc biệt là chính Satan, là một trong những đau khổ lớn nhất của hỏa ngục. Thánh Faustina nói rằng một trong bảy hình khổ của hỏa ngục là nhìn thấy Satan: “Satan thật khủng khiếp!... Chỉ cần nhìn thấy hắn còn ghê tởm hơn mọi hình phạt của hỏa ngục.”[3] Trong tác phẩm Đối thoại, thánh Catarina thành Siena viết rằng thánh nữ thà đi trên con đường đầy lửa cho đến tận Ngày Phán Xét còn hơn là nhìn thấy [Satan] một lần nữa.”[4]

Khi Allie bắt đầu thấy quỷ, cô nói một điều khiến cô rất sốc là chúng hoàn toàn không có chút hối hận hay lòng trắc ẩn nào. Chúng không có chút quan tâm nào dành cho người khác. Chúng là những kẻ ác độc, bạo lực, ích kỷ, và thật sự thích thú trong việc gây đau đớn và làm người khác khổ sở. Nói cách khác, chúng là những kẻ ác dâm.

Tôi kinh ngạc và đau lòng khi thấy giới trẻ ngày nay xăm hình các con quỷ lên người. Một thanh niên tìm đến để xin giúp đỡ vì đang bị tấn công bởi quỷ dữ, và trên hông cậu có xăm hình một con quỷ. Tôi hỏi tại sao lại làm vậy, và cậu trả lời: “Con nghĩ rằng làm vậy sẽ giúp con trở nên tốt hơn.” Thật quá sức tưởng tượng!?!

Khi ngày lễ Halloween đến gần, tôi thường được các bậc phụ huynh hỏi rằng có nên để con họ tham gia không. Tôi không muốn làm người phá hoại niềm vui, và tôi cũng thích một buổi lễ hội vui vẻ. Tuy nhiên, tôi khuyên họ không nên để con cái hóa trang thành ma quỷ, phù thủy, bộ xương hay bất cứ hình ảnh nào đại diện cho sự dữ. Sau khi đọc mô tả của thánh Faustina về hỏa ngục, tại sao lại có ai muốn cho con mình mặc trang phục mang hình ảnh ma quỷ? Chúng ta đang xem nhẹ bản chất thật sự kinh hoàng của tội lỗi, sự ác và ma quỷ. Thay vào đó, tôi khuyên họ nên cho con cái mình thành hoá trang theo những hình ảnh của sự thánh thiện. Một cặp vợ chồng Công giáo đạo đức đã để con cái chọn vị thánh yêu thích của mình và hóa trang thành các thánh ấy.

Trong xã hội hậu Kitô giáo ngày nay, việc đảo ngược Sự Thật ngày càng gia tăng, đó là một chiến thuật của ma quỷ. Người ta nói rằng điều ác là điều tốt, và họ tin rằng điều thực sự tốt lại là điều xấu. Tôi thấy nản lòng trước điều đó và thường nửa đùa nửa thật nói với mọi người: “Tôi muốn giảng một bài giảng một phút vào thánh lễ Chúa nhật như sau: Hãy quay lại điều căn bản. Thiên Chúa là tốt lành. Satan là ác độc. Thiên thần là tốt lành. Quỷ dữ là ác độc. Satan không phải là bạn của bạn!” Những chân lý cơ bản ấy chỉ vài năm trước còn là điều hiển nhiên. Nhưng ngày nay thì không còn như thế nữa.

1. Saint Gemma Galgani, The Saint Gemma Galgani Collection [4 books], Kindle version, p. 85 of 544.
2 St. Faustina, Diary of Saint Maria Faustina Kowalska: Divine Mercy In My Soul,” Kindle, Notebook II, p. 264.
3 St. Faustina, Diary of Saint Maria Faustina Kowalska: Divine Mercy In My Soul,” Kindle, Notebook II, p. 213.
4 Catherine of Siena, The Dialogue: A Treatise of Discretion, Kindle, p. 56 of 169, #46.

Trích từ My Confrontation with Hell: Real Demonic Encounters of an Exorcist